Ra khỏi Reykjavik, Hans dẫn chúng tôi men theo bờ biển băng qua
những cánh đồng cỏ vàng úa cằn cỗi ở chân trời phía đông. Đây đó có vài
mảng tuyết sáng trên sườn những ngọn núi xa xa. Vài ngọn núi vươn cao
xuyên thủng mây xám, trồi lên như đá ngầm giữa biển mây cuồn cuộn.
Ở nhiều chỗ, những khối đá lô nhô cằn cỗi nhô ra đến biển vắt ngang
đồng cỏ, song vẫn có lối đi qua. Những con ngựa của chúng tôi theo bản
năng bao giờ cũng tìm ngay được những lối đi ấy mà không cần chậm
bước.
- Chà, mấy con ngựa hay thật! – giáo sư nói với tôi – Xét về trí thông
minh không loài ngựa nào ăn đứt được ngựa Iceland. Nó can đảm, dè dặt,
đáng tin cậy.
Chúng tôi vẫn rảo bước. Quang cảnh đã bắt đầu hoang vắng. Lác đác đó
đây một cái trại bỏ hoang hoặc vài ba túp lều đơn độc của nông dân Iceland,
dựng sơ sài bằng cành cây và bằng đất lẫn dung nham vụn.
Hai giờ sau khi rời Reykjavik, chúng tôi tới Gufunes. Gufunes là một
ngôi làng nhỏ bé và nghèo nàn, chỉ có lác đác vài nóc nhà. Chúng tôi nghỉ
chân ở đấy nửa tiếng, chia sẻ với nhau những bữa trưa thanh đạm. Hans nói.
Khi chú tôi hỏi anh ta định dừng lại ngủ đêm ở đâu, anh trả lời cộc lốc:
- Gardar!
Đem bản đồ ra xem, tôi thấy bên bờ vịnh Hvaljoird cách Reykjavik bốn
dặm có một ngôi làng nhỏ mang tên ấy. Tôi liền chỉ cho giáo sư.
- Trời đất! – ông la lên – Chẳng lẽ cả một ngày trời mà chúng ta đi được
có bốn dặm thôi sao?
Chú tôi định góp ý với người dẫn đường, song anh ta lẳng lặng đứng dậy
và dẫn đầu đoàn ngựa tiếp tục cất bước.
Sau khi đi quanh vịnh Kollafjord, chúng tôi lại lên đường ngay và đi
thẳng tới bờ nam vịnh Hvaljord. Vịnh Hvaljord rộng gần nửa dặm, sóng vỗ
ầm ầm lên những mô đá nhọn hoắt ven bờ. Vịnh lọt giữa những vách núi đá
cao ba ngàn bộ, dựng đứng như những bức tường thành. Tôi không tin mình
có thể vượt qua một eo biển như vậy trên lưng một con ngựa, cho dù nó
thông minh đến độ nào chăng nữa! Nhưng chú tôi không muốn chờ đợi, ông
thúc cả hai con ngựa ra bờ biển. Con ngựa của ông cưỡi dừng lại rồi đứng ì