bên cửa sổ khi chiếc xe mất hút. Kế đó anh ta bước đến điện thoại để liên
lạc đi hai tiếng.
— Yigal, anh hỏi (ngay khi trả lời, anh tiếp) Karagil, có nghĩa là bằng
tiếng Hebrew (Do Thái cổ): “Như thường lệ”.
Anh gác máy và tự đi làm cho mình một tách cà phê.
Ở đầu dây bên kia, Yigal, liên lạc xong với Gad, gọi Dov.
— Beseder, anh ta nói với Dov, ”Mọi việc tốt đẹp”.
Dov có một văn phòng bên cạnh nhà máy Mercedes-Benz. Đối với công
việc phải làm bây giờ, anh có dư thì giờ.
Anh chờ ba mươi phút, đoạn, xách một chiếc rương nhỏ đặc biệt, nhưng
không có một chút gì khác lạ ở bề ngoài, anh đi chầm chậm về hướng trạm
xe buýt gần hãng nhất. Anh đến đó lúc bảy giờ hai mươi phút. Vài phút sau,
một chiếc xe buýt xuất hiện. Trong khi xe tới gần, Dov ngắm tấm bảng chỉ
nơi đến và làm một điệu bộ nhỏ cho ba người đứng chờ bên cạnh anh ta có
thể hiểu rằng đó không phải là chiếc xe anh đang chờ đợi. Ngay khi những
người hành khách bắt đầu xuống. Dov quan sát họ một cách kín đáo, vẻ
dửng dưng như nét mặt của những người đang xếp hàng chờ phiên mình.
Có thể là anh ta có vẻ ơ hờ hơn những người kia nữa, vì anh phải chờ
chuyến xe sau. Anh đứng dạng ra sau một chút, hai tay ôm sát chiếc rương
nhỏ vào bụng, như một người muốn nghỉ tạm đôi cánh tay trong một cuộc
chờ đợi lâu dài. Những hành khách đi xuống, và Klement trong đám họ.
Dov quan sát ông, và đầu ngón tay giữa được che khuất của cánh tay phải
ấn mạnh lên mặt rương tại góc dưới. Trong khi xe buýt lại rồ máy, chở theo
ba người cũng chờ đợi anh, Dov tiếp tục quan sát ông Klement khi ông này
băng qua đường hướng về phía hàng rào của nhà máy. Dov xoay người từ
từ để mặt trước của chiếc rương vẫn hướng về bóng dáng của Klement.
Ngón giữa của bàn tay mặt vẫn được ấn xuống. Không ai nhận biết được