luật cao cả, một cái nhìn của Chúa. Bỗng nhiên mẹ hiển hiện trước tôi như
một bằng chứng của Chúa.
Bản nhạc của nỗi tuyệt vọng tinh tế nhất, lạc lõng và tươi cười, nó len lỏi
và gậm nhấm cùng với các hình ảnh của một hạnh phúc đã qua và đã chết.
Không bao giờ nữa. Tôi sẽ không bao giờ là đứa con trai nữa. Không bao
giờ còn những cuộc trò chuyện bất tận giữa chúng tôi. Tôi sẽ không bao giờ
có thể kể cho mẹ nghe những chuyện mà ở Londres tôi đã chuẩn bị cho mẹ
mà chỉ có một mình mẹ thấy hay. Đôi khi tôi bất chợt thấy mình tự nhủ:
“Đừng quên kể cái này với mẹ”. Và những món quà tôi đã mua cho mẹ ở
Londres, những cái cổ áo xinh đẹp viền đăng ten, mẹ sẽ không bao giờ
được thấy. Phải vứt chúng vào đống rác thôi. Không bao giờ tôi còn thấy
mẹ xuống tàu, rạng rỡ, ngượng ngùng; không bao giờ còn nữa những chiếc
va li dỡ tung của mẹ, đầy những quà làm mẹ phá sản. Đó là cuộc phiêu lưu
vĩ đại của mẹ, những cuộc viễn chinh về với con trai mẹ được chuẩn bị lâu
dài và tiết kiệm. Sự quan tâm gây ấn tượng tốt của mẹ ở nhà ga và những
nét thanh lịch đức độ của mẹ cái đêm đầu tiên mẹ đến, phải, tôi biết rằng tôi
đã nói điều đó. Nhưng không ai có thể ngăn cản tôi cởi mở cõi lòng tội
nghiệp của tôi. Một lần nữa tôi ra mở cửa căn buồng của tôi. Tuy nhiên tôi
biết rõ rằng mẹ không bao giờ ở sau cửa.
Thời gian trôi qua và đây là buổi sáng, một buổi sáng khác vắng mẹ. Có
người bấm chuông ngoài cửa. Tôi vội vàng đứng dậy và nhìn qua lỗ cửa.
Nhưng chỉ là một bà già từ thiện với quyển sổ bỏ túi cầm ở tay. Tôi không
mở cửa cho bà để phạt bà. Tôi quay lại bàn của tôi và tôi cầm lấy cây bút.
Nó bị chảy mực và tôi bị những vết xanh trên bàn tay. Bà khóc lóc và xin
lỗi tôi. Bà nức nở: “Ta không làm thế nữa”. Những bàn tay nhỏ nhắn của bà
dây vết mực xanh. Một người đàn bà có tuổi và tốt thế khóc lóc như một cô
gái bé bỏng, khóc nấc lên, thật kinh khủng. Tôi nghĩ trong vài giây rằng tôi
không gây ra cái cảnh đó, rằng ngay trước khi bắt đầu trách móc, tôi đã đôi
mắt hoảng sợ của bà ta và rằng không có những vết xanh. Than ôi. Tuy