của ta đã chết một cách vô ích và 1,5 nghìn tỷ đô-la coi như đổ sông
đổ bể.
Thế nên, nếu Iran hay ISIS định tiếp quản số dầu mỏ này,
tôi nói chúng ta sẽ tiếp quản dầu mỏ trước bằng cách vạch ra một
kế hoạch chia sẻ chi phí với Iraq. Nếu ta bảo vệ và kiểm soát các mỏ
dầu, Iraq sẽ được giữ một tỷ lệ phần trăm dầu mỏ đáng kể – đó là
chưa nói đến sự độc lập của nước này trước Iran – và ta sẽ bù lại được
phần nào chi phí giải phóng người Iraq cũng như đền đáp được cho
các quốc gia đã cùng ta chiến đấu trong cuộc chiến này. Và tôi
cũng muốn báo đáp gia đình của các thương binh liệt sĩ. Lẽ dĩ nhiên,
không gì có thể bù đắp cho một sinh mạng hay một phần cơ thể đã
mất đi, song ta có thể cho con em của các thương binh liệt sỹ đến
trường, bù đắp cho các cô phu, góa phụ của những người lính đã hy
sinh ở Iraq, và đảm bảo rằng các thương bệnh binh được chăm sóc
chu đáo. Đó là điều bình thường, và chỉ là hạt cát so với thứ nằm
dưới mặt đất Iraq kia. Mỗi gia đình Mỹ mất đi người thân ở Iraq
cần phải được đáp đền 5 triệu đô-la, và các thương bệnh binh của ta
cần phải được trả, có lẽ là 2 triệu đô-la mỗi người, cộng với phí tổn y
tế.
Cứ gọi tôi là người cựu trào, song tôi tin vào tín niệm của chiến
binh thời xưa rằng: “kẻ nào thắng kẻ đó được chiến lợi phẩm”. Nói
cách khác, chúng ta không đánh một trận, rồi giao chìa khóa cho
những kẻ ghét ta và rời đi. Chúng ta thắng trận, lấy dầu để bù
đắp những phí tổn tài chính mà ta đã phải chịu, và khi làm thế, ta
đã đối xử công bằng với Iraq và với mọi người khác. Như Tướng
Douglas MacArthur đã nói: “[trong chiến tranh], không có gì thay
thế được chiến thắng”. Ngay từ lúc khởi đầu Chiến dịch Tự do
cho người Iraq, tôi đã tin rằng chúng ta cần phải vạch ra một kế
hoạch bồi hoàn với người Iraq – thông qua những người Iraq bất
đồng chính kiến tha hương – trước khi phát động cuộc chiến và