mái, đôi lúc còn đùa cợt, và cậu biết chắc mình chưa bao giờ được chơi hay
hơn thế trong đời. Họ không hề nhắc đến cuộc đối thoại trước khi cậu đi, bà
cũng không hỏi về kỳ nghỉ ở vùng quê. Họ chỉ nói chuyện âm nhạc.
Rồi ngày thứ tư sau khi cậu trở về, một chuỗi những không may lặt vặt -
tính cả một cái két bồn cầu rỉ nước trong phòng - khiến cậu không thể đến
Excelsior vào giờ mọi khi. Đến lúc cậu đi qua quán, ánh ngày đã nhạt, bồi
bàn đã thắp nến trong những bát thủy tinh nhỏ, và chúng tôi đã chơi được
vài bài trong suất tối. Cậu giơ tay vẫy chúng tôi, rồi đi tiếp qua quảng
trường đến khách sạn, trông như cà nhắc vì tha theo cây đàn.
Cậu để ý thấy người lễ tân hơi do dự trước khi gọi lên phòng bà. Rồi khi
mở cửa, bà chào cậu thân thiết nhưng có vẻ hơi khác mọi khi, và trước khi
cậu kịp lên tiếng thì bà đã nhanh chóng nói:
“Tibor, tôi thật mừng là anh tới. Tôi vừa kể với Peter mọi chuyện về
anh. Đúng thế, Peter cuối cùng cũng đã tìm thấy tôi!” Rồi bà gọi với vào
phòng: “Peter, anh ấy đây rồi! Tibor đây rồi. Và với cả cây đàn nữa!”
Khi Tibor bước vào phòng, một người to con, cứng tuổi, chậm chạp
trong chiếc sơ mi cổ bẻ nhạt màu đứng lên với một nụ cười. Ông ta bắt tay
Tibor rất chặt và nói: “Ôi, tôi đã nghe bao nhiêu điều về anh. Eloise tin chắc
anh sẽ thành một ngôi sao sáng.”
“Peter kiên trì lắm,” bà thì đang nói. “Tôi biết cuối cùng anh ấy sẽ tìm
thấy tôi.”
“Không ai trốn được tôi,” Peter nói. Rồi ông đã kéo ghế cho Tibor, rót
cho cậu một cốc sâm banh từ xô đá đặt trên tủ ly. “Nào, Tibor, hãy cùng
chúng tôi uống mừng cuộc hội ngộ này.”
Tibor nhấp sâm banh, để ý thấy Peter đã tình cờ kéo cho cậu chiếc “ghế
chơi đàn” mọi khi. Eloise đã mất tích đâu đó, và trong một lúc Tibor và
Peter nói chuyện, cốc trong tay. Peter có vẻ hiền hậu và hỏi rất nhiều