“Tôi biết ơn cậu lắm, Charlie. Tôi chỉ đang nghĩ kỹ, thế thôi. Ví dụ
chuyện này, nhỡ may những người ấy qua thật? Sau khi Emily đã về, ý tôi
là thế?”
“Cũng có thể, tôi nghĩ thế. Tôi chỉ nói được là cậu sẽ không may, rất là
không may nếu có chuyện đó xảy ra. Khi tôi nói họ suốt ngày chạy qua, ý
tôi nhiều nhất là tháng một lần. Thế nên đừng bới lông tìm vết mà hãy biết
ơn đi.”
“Nhưng Charlie này, chẳng phải sẽ hơi quá đáng nếu nghĩ con chó chỉ
nhai mỗi quyển sổ, và lại đúng mấy trang ấy?”
Tôi nghe cậu ta thở dài. “Tôi cứ tưởng cậu không cần phải nói tuột ra
hết. Tất nhiên là cậu phải sửa sang lại căn phòng chút ít. Đá đổ cái đèn
đứng, rắc đường ra sàn bếp. Cậu phải làm như Hendrix đã gây mưa to gió
lớn trong phòng. Này, họ gọi lên máy bay rồi. Tôi phải đi đây. Khi nào tới
Đức rồi tôi sẽ gọi lại hỏi.”
Trong lúc nghe Charlie nói, một cảm giác bao trùm lấy tôi, giống như
cảm giác mỗi lần nghe ai đó kể về giấc mơ đêm qua của họ, hay về sự tích
cái vết trầy nho nhỏ trên cửa xe. Đấy là một kế hoạch rất hay – thiên tài là
khác – nhưng tôi không thể ráp nối với những gì tôi sẽ thực sự nói hay làm
khi Emily về, nên càng nghe tôi càng thêm sốt ruột. Nhưng khi Charlie đi
rồi, tôi nhận ra cú điện thoại đã dụ tôi vào trạng thái thôi miên. Ngay giữa
lúc trong đầu tôi đang đánh giá ý tưởng cậu ta là ngớ ngẩn, chân tay tôi đã
vào tư thế sẵn sàng thực thi “giải pháp” đó.
Trước hết tôi đặt cái đèn đứng nằm xuống đất. Tôi cẩn thận tránh không
làm nó va phải thứ gì, và tôi tháo cái chụp ra trước, đợi sau khi cái đèn đã
nằm đâu ra đó trên sàn mới đặt trả lại sao cho hơi vênh một chút. Rồi tôi lấy
một cái bình trên giá sách đặt xuống thảm, còn một ít cỏ khô trong lòng
bình tôi vãi ra xung quanh. Tiếp đó tôi chọn một chỗ thích hợp gần bàn cà
phê để “đánh đổ” bồ giấy vụn. Tôi thực hiện mọi thứ trong một trạng thái