lặng phải đến mười lăm, ba mươi giây, một người sẽ nghi hoặc hỏi: “Thế
bài này là của ai vậy?” Và khi tôi nói là do tôi sáng tác, anh sẽ thấy lưng
quay về phía anh. Vai sẽ nhún, đầu sẽ lắc, nụ cười kín đáo chuyển từ người
này sang người khác, rồi họ sẽ đọc cho tôi diễn văn từ chối.
Lần thứ một trăm gặp phải chuyện này, tôi mất hết kiên nhẫn liền nói:
“Này, tôi không hiểu nổi. Các cậu muốn suốt đời chỉ hát cover hay sao? Và
ngay cả nếu các cậu muốn thế đi nữa thì những bài hát đó, các cậu nghĩ xem
chúng nó từ đâu đến? Phải, đúng rồi đấy. Đều có người viết ra cả!”
Nhưng người đối thoại chỉ nhìn tôi dửng dưng, và nói: “Nói thì đừng
giận, bồ ạ. Chẳng qua là có quá nhiều gã vô tích sự chỉ suốt ngày sáng tác
thôi.”
Cái thái độ ngu ngốc này, mà hình như đã lây lan khắp Luân Đôn, là
điều chính yếu thuyết phục tôi rằng có gì đó đã hoàn toàn mục ruỗng rồi,
không thì ít nhất cũng cực kỳ hời hợt và giả tạo ở đây, ở ngay tầng cơ sở, và
không nghi ngờ gì nữa đây là tấm gương phản ánh những gì đang diễn ra
trong ngành âm nhạc ở những bậc trên cùng.
Chính cái phát hiện này, cộng thêm chuyện mùa hè đến gần mà tôi đã
sắp hết nơi có thể ngủ được, khiến tôi nghĩ rằng dù Luân Đôn có quyến rũ
đến đâu – so ra thì thời đại học của tôi khá là ảm đạm – thì rời khỏi thành
phố ít lâu cũng là có lợi. Thế nên tôi gọi cho chị gái, Maggie, đang cùng
chồng quản lý một quán cà phê trên Malvern Hills, và đấy là lý do vì sao tôi
sẽ đến ở cả mùa hè với họ.