thôi!” Thế rồi họ không phải chỉ có hai người, ba người, chục người, mà
hàng trăm, hàng nghìn. Chim ưng bay đến với chim ưng, con người tìm đến
với con người. Đó, nhân dân miền Đaghextan đã hình thành như vậy.
Những làn gió núi đẩy đưa nôi trẻ, những dòng suối núi hát những bài hát
ru:
- Anh ở đâu, hỡi Đinghir -Đangatru?
- Đinghir đã vào trong rừng sâu
Khi sinh con trai, người ra đặt dao găm xuống dưới gối. Trên cán dao có
khắc dòng chữ: “Bố anh đã có bàn tay cầm dao này không hề lẩy bẩy, liệu
anh có bàn tay ấy chăng?”
Khi sinh con gái, người ta treo trên nôi quả chuông có đề dòng chữ: “Cô
sẽ là chị của bẩy người em trai”
Nôi trẻ đã đung đưa trên dây bắc ngang qua khe núi nhỏ, nối từ vách đá
này đến vách đá bên kia. Những người con trai đang lớn lên, những người
con gái cũng thế. Cả nhân dân Đaghextan đã trưởng thành: ria mép đã đủ
dài, có thể sờ tay vân vê tự hào.
Dân miền Đaghextan đã lên tới 1 triệu 100 nghìn người. Vinh quang về
miền đất ấy vang tận tới các vùng núi xa, vinh quang ấy thiêu cháy trái tim
tham lam vô độ của những kẻ chuyên đi xâm chiếm, vươn những cánh tay
thèm khát tới miền Đaghextan.
Người Đaghextan đã từng nói: “Hãy để yên cho chúng tôi sống bên bếp
lò, cùng bố mẹ vợ con. Chúng tôi đâu có nhiều nhặn gì!”
Bọn kẻ thù đáp lại: “Nếu chúng mày ít ỏi, chúng ta sẽ xẻ đôi từng đứa,
chúng mày sẽ đông lên”
Và thế là chiến tranh nổ ra.