Ngay trước mặt mình, Makhơmút trông thấy tên lính Áo đang quỳ xuống
làm dấu khấn trước tấm ảnh Đức mẹ Maria.
Ở Đaghextan không bao giờ dao đâm kẻ đang quỳ, hơn nữa lại đang khấn
nữa. Thêm vào đấy, Makhơmút bị sửng sốt bởi vẻ đẹp của người phụ nữ mà
tên lính Áo đang khấn khứa.
Bất chợt, Makhơmút bỗng nhìn thấy trước mặt mình là nàng Mu-i, người
con gái ông yêu - nhìn thấy đôi mắt nàng, nỗi buồn đọng trong khóe mắt
nàng, dáng vẻ, quần áo nàng. Con dao găm tuột rơi khỏi tay ông. Không rõ
sau này, tên lính Áo kia đã kể lại câu chuyện này thế nào, chỉ biết rằng
người lính kỵ binh lúc nãy vừa tỏ ra dữ tợn thế bây giờ cũng quỳ xuống bền
cạnh, vụng về dơ tay làm dấu theo kiểu đạo Thiên chúa. Makhơmút không
biết tên lính Áo đã biến đi lúc nào. Khi tỉnh lại, ông đã làm bài thơ bất tử
“Mariam” có nghĩa là bài thơ về nàng Maria.
Đối với ông, Mu-I mà Maria đã nhập hòa lại thành hình ảnh duy nhất.
Ông viết về Maria mà nghĩ về nàng Mu-i; ông viết về nàng Mu-i mà nghĩ
về Đức mẹ Maria.
Từ ngày ấy, trên đời này Makhơmút chỉ còn biết đến tình yêu. Tâm hồn
ông không chứa được các bài hát khác. Trong số các nhà thơ Đaghextan,
chưa từng người nào đạt đến đỉnh cao của tình yêu mãnh liệt như ông, chưa
từng có ai đạt đến độ sâu sắc như các bài thơ của ông. Ông không hề nhận
thấy rằng mình đang làm thơ, rằng đang nói lên bằng thơ, không phải là nói
mà là hát. Dường như có ai đã nói và hát thay cho ông. Những gì tốt lành
làm được ông đầu nói là nhờ tình yêu với nàng Mu-i. Nếu bạn ông không
nói với ông về nàng Mu-i thì ông không buồn nghe bạn nói nữa.
Bố tôi có kể về Makhơmút như thế này
Từ đấy, rất nhiều người tìm đến gặp Makhơmút. Họ toàn là những người
đang yêu. Họ hiểu sức mạnh lời nói của ông và đề nghị ông làm thơ cho họ.
Đã đến gặp ông, chàng trai lần đầu tiên phải lòng cô gái mà không biết nói