thuận gió đi ngay ban đêm. Trường không kịp đi theo, bèn về ẩn ở thôn
quê.
Năm Bính Thân (1776), Trường quyết tâm vào nam, gởi vợ là Từ thị và con
nhỏ là Minh nương náu ở nhà ngoại, còn mình đem mẹ là Hoàng thị vượt
biển ra đi. Dọc đường vì gió thổi dạt vào cửa biển Thị Nại, bị giặc bắt được
(có thuyết nói Trường lánh ở Quy Nhơn). Nguyễn Văn Huệ nghe tiếng
Trường là người hiền nên lưu lại, đãi lễ bằng bạn thầy nhưng Trường cố từ,
không nhận.
Trước đó, Hoàng tôn Dương bị "giặc" cưỡng ép đem vào Quy Nhơn,
Trường bèn bí mật bàn mưu với Dương để Dương vào Gia Định trước. Một
hôm Trường nói thực với Huệ xin theo chủ cũ cho toàn nghĩa vua tôi. Huệ
nói: "Tiên sinh đi chuyến này, ý muốn xoay lại trời đất, được chăng? Tôi e
ngày sau ăn năn cũng muộn mất". Trường nói: "Đại trượng phu ở đời lấy
trung hiếu làm đầu. Tôi nay mang mẹ đi theo vua, nghĩa ấy thật đã rõ ràng;
còn việc cùng hay thông, được hay hỏng là ở số mệnh, đâu có ăn năn!" Huệ
khen khảng khái, cho đi và hậu tiễn cho vàng, lụa, Trường đều không nhận.
Trường đến Gia Định, yết kiến ở hành tại, tham dự bàn mưu. Năm Đinh
Dậu (1777) Nguyễn Văn Huệ vào đánh. Tân Chính vương (Hoàng tôn
Dương) đóng quân ở Trấn Biên. Quân Hòa Nghĩa của Lý Tài đánh nhau với
giặc, bị thua. Trường xin lui về Sài Gòn để tính việc đánh và giữ.
Đến lúc Sài Gòn thất thủ, Trường lại bị bắt. Huệ hỏi "Tiên sinh, ngày nay
tính sao?" Trường đáp: "Việc ngày nay, chỉ giữ nghĩa, không mong sống.
Vua nhục, tôi chết đó là phận sự. Còn hỏi làm chi!" Huệ bèn sai giết đi. Lúc
sắp bị hành hình, Trường hướng về phía bắc, lạy hai lạy rồi chịu chết.
Con là Cao, các học trò là Nguyễn Thanh, Nguyễn Luân và Nguyễn
Thường đều nhảy xuống sông tự tử. Mẹ là Hoàng thị cũng hoảng sợ mà
chết (Có một thuyết nói: có võ sĩ tên là Điển Nghệ (không nhớ họ) ở dưới
trướng Tân Chính vương, đánh nhau với giặc ở sông Tranh; lạc mất chúa,
nghe tin Nguyễn Đăng Trường chết, cũng nhảy xuống giếng c
Gia Long năm thứ 3 (1804), triều đình lục dụng con Trường là Minh cho
vào Hàn lâm viện. Năm thứ 9 (1810) cho đưa Trường vào thờ ở miếu Trung
tiết công thần. Minh Mạng năm thứ 3 (1822) truy tặng hàm Binh bộ