Con là Phúc Tụy làm quan đến Tri phủ. Tự Đức năm thứ 4 (1851) ấm thụ
cho cháu bốn đời là Bồi làm Bá hộ, trông coi việc thờ cúng Phúc Thành.
Lê Xuân Chính
Người huyện Lệ Thủy thuộc Quảng Bình. Lúc trẻ tuổi học Nho, có tướng
quân trấn thủ doanh Lưu Đồn là Trấn Ninh hầu sai giảng nghĩa cốt yếu của
kinh Thi. Năm Hiển Tông
Hoàng Đế thứ nhất (1691), dâng biểu tiến cử Xuân Chính sung làm Văn
chức doanh Lưu Đồn, rồi thăng làm Ký lục.
Năm Nhâm Ngọ (1702), mùa thu, triệu về bổ Văn viên. Chúa cho làm văn
thi ở trước mặt, viết bài phú Bán phàm các được liệt vào hạng giáp. Năm
Kỷ Sửu (1709) mùa thu, thăng làm Ký lục doanh Lưu Đồn, rồi đổi làm Ký
lục Quảng Bình. Năm Đinh Mùi (1727), mùa đông, Xuân Chính chết, được
tặng phong Đại lý tự khanh Tham nghị.
Xuân Chính có 2 con: con trưởng là Xuân Hy, lúc bé thông minh, chăm
học, vì là con nhà thế gia, được bổ vào viện Văn chức. Túc Tông Hoàng Đế
năm thứ 4 (1728), thăng Ký lục doanh Bố Chính. Xuân Hy làm quan có
thành tích tốt, quan và dân đều mến phục. Thế Tông Hoàng Đế năm thứ 7
(1745), mùa xuân, thăng Khâm sai Binh vụ doanh Bố Chính. Năm thứ 9
(1747), mùa đông, thăng Hình bộ. Năm thứ 11 (1749), mùa đông mất, được
tặng Chính trị thượng khanh Chánh Thiêm sự.
Con thứ hai của Xuân Chính là Xuân Huyên cũng do chân ấm tử được vào
viện Văn chức. Thế Tông Hoàng Đế năm 11 (1749), thăng Ký lục dinh Bố
Chính. Năm thứ 15 (1753) mùa hạ, thăng Ký lục Quảng Nam. Năm thứ 18
(1756) thăng Hình bộ. Năm thứ 20 (1758), lại làm Cai bạ doanh Quảng
Nam. Năm thứ 24 (1762), thăng Hộ bộ kiêm Binh bộ, lĩnh Đại tư nông.
Năm Ất Dậu (1765), mùa hạ, Duệ Tông Hoàng Đế mới lên ngôi, được
thăng Tham chính, quản Hộ bộ kiêm Binh bộ. Canh Dần (1770), năm thứ 5
chúa cho dựng Văn miếu ở Long Hồ, Xuân Huyên vâng mệnh xem đất và
trông coi việc xây dựng. Quý Tỵ Duệ Tông năm thứ 8 (1773), mùa xuân,
Huyên chết, được tặng phong Đại lý tự thượng khanh, thụy là Trung Thành.
Sau đó, vì có công chọn đất lập Văn miếu, được thờ ở Dụy Lễ đường bênh
Văn miếu. Năm đầu Gia Long (1802), vẫn còn để nguyên thế, đến năm thứ