phòng bị. Năm Đinh Dậu (1777) mùa xuân "giặc" Tây Sơn lại vào lấn
cướp. Sài Gòn thất thủ, chúa chạy đi Long Xuyên, chư tướng theo Tân
Chính Vương lui giữ Ba Việt (t
huộc Vĩnh Long), Phúc Hòa quản lĩnh chư quân, bày trận để chống giặc.
Bấy giờ chư tướng phần nhiều bị ốm chết. Một mình Phúc Hòa chống giặc
nhiều lần, đánh đều thắng, giặc sợ. Sau đó giặc lại đánh Ba Việt. Phúc Hòa
than rằng: "Chúa phải lo thì bề tôi phải chết, nghĩa không nên tránh". Bèn
bảo bộ thuộc rằng: "Lũ ngươi tuổi còn trẻ, sức còn khỏe, nay nên tản đi các
nơi, để mưu tính lập công về sau. Ta đã cao tuổi, không làm gì được, dù
muốn sống để báo đáp cũng chưa chắc được. Hơn nữa, thân làm đại tướng,
xã tắc không giữ được, mà nhẫn nhục sống thừa, há nên thế ư ?" Nói xong
bèn tự tử … Sau đó được truy tặng Chưởng doanh Quận công. Gia Long
năm thứ 9 (1810) , được thờ vào miếu Trung tiết công thần.
Mạc Cảnh Huống
Cảnh Huống người huyện Nghi Dương, thuộc Hải Dương, là em Khiêm
vương Mạc Kính Điển. Bà Hiếu Văn Hoàng Hậu cháu gọi Mạc Cảnh
Huống bằng chú. Năm Mậu Ngọ (1558) mùa đông, Thái Tổ vào Nam, trấn
thủ Thuận Hóa, Cảnh Huống đem gia quyến đi theo, làm quan đến Thống
binh, tham mưu trong màn trướng. Giúp việc lúc khai quốc, công lao ngang
với Nguyễn Ư Kỷ, Tống Phúc Trị. Cảnh Huống mất trong khi đang tại
chức.
Con là Vinh (vốn là họ Mạc, lúc đầu được ban quốc tính gọi là Nguyễn
Phúc, về sau, lại đổi làm họ Nguyễn Hữu). Đời Hy Tông Hoàng Đế, Vinh
lấy công chúa Ngọc Liên làm đến Phó tướng. Năm thứ 16 (1629) Lưu phủ
Phú Yên là Văn Phong làm phản, Vinh dẹp yên được, mở đất đến Bình
Khang lập ra doanh Trấn Biên. (đầu cõi gọi là Trấn Biên). Vì có công Vinh
được ban ấ
n đỏ.
Trần Đức Hòa
Đức Hòa là người huyện Bồng Sơn, Bình Định. Ông nội là Ngọc Chính,
làm quan nhà Lê, được tặng phong Vinh lộc đại phu. Cha là Ngọc Phẩn,
cũng làm quan nhà Lê, đến chức Phó tướng dinh Quảng Nam. Hòa là người