Đến đời Hiển Tông Hoàng Đế, Hào lại được dùng làm Cai cơ thống suất cơ
Hữu súng, rồi thăng Chưởng cơ. Năm thứ 13 Giáp Thân (1704) Hào ra làm
Trấn thủ Quảng Bình. Khi đến trấn, Hào yêu nuôi sĩ tốt, vỗ yên trăm họ,
quan và dân đều yêu mến. Gặp lúc ngoài biên vô sự, Hào để ý vào văn
chương, có làm truyện Song tinh bất dạ (64) bằng quốc âm, người đời
truyền tụng.
Năm Quý Tỵ (1713) mùa thu, Hữu Hào mất, được tặng phong Đôn hậu
công thần, thụy là Nhu Tử. Gia Long năm thứ 4 (1805) được xếp vào hạng
công thần bậc nhì, ấm thụ một cháu làm Thứ Đội trưởng, để giữ việc thờ
cúng, cấp cho 6 mẫu tự điền, 3 người coi mả. Con là Khôi, làm đến Ký lục.
Nguyễn Hữu Cảnh
Là con thứ Hữu Dật. Lúc trẻ tuổi Hữu Cảnh theo cha đi đánh dẹp, có công
được làm Cai cơ. Hiển Tông Hoàng Đế, năm đầu Nhâm Thân (1692), vua
Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, lấn cướp Diên Ninh (sau này đổi là
Diên Khánh thuộc Khánh Hòa). Chúa cho Hữu Cảnh làm Thống binh cùng
với Tham mưu Nguyễn Đình Quang đem quân tiến đánh phá được quân
Chiêm, bắt Bà Tranh đem về, đổi nước ấy làm trấn Thuận Thành. Bấy giờ
người Bà Tranh là A Ba, dụ dỗ đám quần chúng còn sót của Thuận Thành
làm loạn. Hữu Cảnh lại dẹp yên, được thăng Chưởng cơ, lĩnh Trấn thủ
doanh Bình Khang.
Năm Mậu Dần (1698) mùa xuân, chúa sai Hữu Cảnh làm Thống suất, đem
quân đi kinh lược Chân Lạp, lấy đất Đồng Phố, đặt làm phủ Gia Định phân
chia đất ấy, lấy Đồng Nai(65) làm huyện Phước Long, đặt doanh Trấn Biên,
lấy Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng doanh Phiên Trấn. Mở đất nghìn
dặm, dân được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ lưu dân từ châố Chính trở vào
nam cho ở đất ấy. Đặt xã, thôn, phường ấp, khai khẩn ruộng đất, định ngạch
tô thuế, làm sổ đinh. Đến lúc về, Hữu Cảnh lại lĩnh trấn như cũ.
Năm Kỷ Mão (1699) mùa thu, vua nước Chân Lạp là Nặc Thu làm phản.
Tướng coi doanh Trấn Biên đem việc ấy tâu lên. Chúa lại sai Hữu Cảnh
làm Thống suất đi đánh.
Năm Canh Thìn (1700) mùa xuân, Hữu Cảnh đến nơi, bày trận ở Ngư Khê,
đắp lũy Hoa Phong, sai người xem tình hình hư thực, chia đường tiến đánh