Chưởng cơ, lĩnh Trấn thủ Bình Khang. Năm Ất Mùi (1775), "giặc" Tây
Sơn quấy rối cướp bóc trong bờ cõi. Tiết chế Tống Phúc Hiệp sai Kế đem
quân đi đường núi, đánh úp. Quân thua, bị giặc bắt được. Giặc muốn dụ
hàng, Kế bất khuất, mắng giặc mà chết. Người lính hầu tên là Khố, được
giặc thả ra, nhưng Khố không chịu, nói: "Chủ tướng đã chết, ta sống làm
gì!" Giặc cũng giết nốt. Lúc đầu trung hưng, truy tặng Kế là Chưởng
doanh, cấp người coi mả, cho thờ ở hai miếu Hiển trung và Trung tiết công
thần.
Nguyễn Hữu Danh
Người huyện Duy Xuyên thuộc Quảng Nam, ban đầu làm Cai cơ. Duệ
Tông, năm thứ 9 Giáp Ngọ (1774) sai quản binh lính 5 thuyền và các
thuyền Quảng Nam, theo Chưởng cơ Tôn Thất Thắng đi đánh dẹp, đánh
nhau với giặc ở Chiến Đàn, bị chết trận.
(Phụ: mấy người cùng "tỉnh" với Nguyễn Hữu Danh)
1. Phan Phúc n
Người huyện Diên Phúc cũng tỉnh Quảng Nam, trước làm Khám lý, đốc
suất các huyện thuộc phủ Thăng Bình. Năm Quý Tỵ (1773), "giặc" Tây
Sơn nổi loạn, n đem theo Tán lý Đỗ Văn Hoảng làm Tiên phong đi đánh
giặc. Giặc đương đêm đánh úp; giết Hoảng, sĩ tốt tan vỡ. n bèn thu nhặt
quân tàn, lui đóng ở Câu Đê. Năm Giáp Ngọ (1774) mùa xuân, n theo Tả
quân Nguyễn Cửu Dật, cai quản quân tiền phong, tiến đánh giặc ở sông
Tam Kỳ, bị chết trận.
2. Đỗ Hữu Nghi
Năm Giáp Ngọ (1774), Nghi theo Đốc chiến Tr(không nhớ họ) đánh giặc,
có công, được bổ Tri huyện Bình Sơn. Lại theo Nguyễn Cửu Dật đem
hương binh đánh nhau với giặc ở sông Thanh Hà, bị chết trận.
3. Vũ Văn Duy
Người huyện Lễ Dương. Trước Duy làm Đội trưởng, đốc suất đội Tả mã.
Năm Giáp Ngọ (1774), theo Tả quân Nguyễn Cửu Dật đi đánh giặc, có
chiến công, được thăng Cai đội, rồi chuyển làm Khâm sai Cai cơ. Năm Ất
Mùi (1775) Duệ Tông vào Nam, Duy chiêu tập tàn quân, theo Tôn Thất