Nghĩa là:
Lập luật pháp, bớt hình phạt lại thấy triều ta có Cấp Ảm (77).
Làm cho dân không kiện cáo, mới biết nước ta có Hoài Nam.
Năm Giáp Thìn (1724), được thăng Chính doanh Ký lục, Đăng Đệ xin cấm
các loại tiền bằng gang, kẽm, chì và sắt không được dùng để mua bán. Tiền
đồng mẻ gãy không được chọn chê. Chúa nghe theo.
Túc Tông năm đầu (1725), Đăng Đệ vâng mệnh đi tuần kiểm các phủ thuộc
Quảng Nam, định rõ thể lệ quan chức của các thuộc mới lập. Thuộc nào từ
500 người trở lên đặt Cai thuộc, Ký thuộc, đều một người, thuộc nào từ 450
người, đặt một Ký thuộc. Thuộc nào từ 100 người trở xuống, đặt một
Tướng thần. Duy các thuộc Hoa Châu, Phú Châu, hộ làm liềm, nhà đan
lưới và nhà bè, đặt một Đề lĩnh.
Đăng Đệ lại xin cấm dân đánh bạc, kiện gian, trốn tránh sai dịch và ẩn lậu
đinh khẩu. Chúa đều cho làm. Sau đó, Đăng Đệ bị ốm, nghỉ việc. Năm
Đinh Mùi (1727) mùa đông, ông mất, thọ 59 tuổi. Được tặng phong Kim tử
Vinh lộc đại phu, cho nhiều tiền, lụa để mai táng. Con là Đăng Cẩn và Cư
Trinh đều có truyện riêng.
Nguyễn Đăng Thịnh
Tự là Hương, hiệu là Chuyết Trai. Cha tên Đăng Trị, là anh Đăng Đệ, trước
kia đỗ Hương tiến (tức Cử nhân), làm quan đến Văn chức kiêm Giám trạng,
được truy tặng Triều nghị đại phu. Đăng Thịnh lúc trẻ thông minh, nhanh
nhẹn, nhớ dai, học rộng, giỏi văn. Năm 14 tuổi, trúng tuyển, được bổ Lễ
sinh, từ chối không nhận. Hiển Tông Hoàng Đế năm thứ 30, khoa Tân Sửu
(1721), đỗ Hương tiến, sơ bổ làm Tri huyện Hương Trà, rồi cất nhắc làm ở
Văn chức viện. Ông nổi tiếng về văn chương. Phàm các lệi ấy đều ra từ tay
ông. Túc Tông năm đầu (1725), Thế Tông còn ở thanh cung (78) Đăng
Thịnh làm Thị giảng. Năm Canh Tuất (1730), mùa đông, thăng Đô tri. Năm
Tân Hợi (1731), mùa đông, ra làm Cai bạ Quảng Nam. Năm Ất Mão
(1735), mùa đông, về thăng Nha úy. Năm Giáp Tý (1744), mùa hạ, Thế
Tông mới lên ngôi chúa. Bài biểu của quần thần khuyến tiến có câu rằng:
"Chính danh phận ư nhất quốc, duy tân chi thủy; Hưng lễ nhạc ư bách niên,
tích đức chi dư" (Chính danh phận ở một nước, lúc bắt đầu duy tân; Đấy lễ