khuôn phép kiên thuận, khuyên thần lấy mưu lược siêng lo, khiến cho thần
dựng lại được nước nhà, nhất thống được bờ cõi, không phải do tự lời dạy
của hậu, sao được đến thế. Đức hóa tốt đẹp khắp đến các phương, tuổi thọ
đã cao quá tuần bảy chục, sao đã vội bỏ sự cung dưỡng bằng cả thiên hạ,
mà đi chơi ở chốn cõi tiên. Công cao như trời, muốn báo đền ơn sâu mà
chẳng biết; ơn dầy như đất, nên thuật lại đức tốt đến vô cùng. Nay kính cẩn
thân đem các quan xin mệnh lệnh ở nhà tôn miếu, kính bưng kim sách dâng
lên thụy là Ý Tĩnh Huệ Cung, Anh Trinh Từ Hiến, Hiếu Khang Hoàng hậu.
Cúi xin anh linh sáng tỏ thêm lên, nhận lấy danh hiệu to lớn phối hưởng với
Nễ cung (10), cùng lâm hưởng muôn thủa.
Ngày Kỷ Mão, bá cáo cho trong ngoài biết. Mùa hạ, tháng 4 táng ở lăng
Thụy Thánh (ở núi Đinh Môn, thuộc huyện Hương Trà), ngày Giáp Dần
rước thần chủ để ở cung Trường Thọ.
Năm thứ 12 (1813), tháng 9, lễ đại tường xong, Lễ thần dâng nói: Hiếu
Khang Hoàng hậu lấy đức sánh với đức, sinh ra bệ hạ, rộng giúp nhân dân,
lợi đến xã tắc, làm nên trung hiếu cho bệ hạ không gì lớn hơn, để lại công
đức vô cùng cho đời sau, không những là có công với Hiếu Khang Hoàng
đế cũng có công với tổ tông, có công với trăm họ nữa. Kinh Thi có nói
rằng: "Hiệu thiên võng cực" (11) là nghĩa ơn đức của mẹ cũng như cha vậy.
Xin đến sau ngày tế đàm, kính rước thần chủ lên phối hưởng ở Nễ cung. Sớ
dâng lên, bảo là phải. Tháng 11, tế đàm rước thần chủ lên phối hưởng ở
miếu Hoàng khảo (Minh Mạng năm thứ 2 đổi dâng miếu hiệu là miếu
Hưng Tổ).
Đền Diễn quốc công nay do cai đội là Tôn Thất Tú coi giữ, hàng năm chi
tiền công để cung việc tế tự.
Nguyễn Từ Phi