với giặc, trốn ở dân gian. Gia Long sơ, cùng với Hợp cùng bị triệu, bổ làm
Trực học sĩ điện Kim Hoa, lĩnh Hiệp trấn Lạng Sơn. Năm thứ 5, Mạc Sáu
Trường lén lút nổi lên, đặt ngụy hiệu là Cảnh Xuân, Đản đem quân bắt
được đưa về Bắc Thành giết đi, trong nước được yên. Năm thứ 6, sung làm
Giám thí trường thi Sơn Nam, rồi chết. Đản tại chức 11 năm, chính sự có
công tốt, lại dịch và dân lấy làm nhớ.
Lê Duy Trâm, người huyện Thanh Oai tỉnh Hà Nội, đỗ Chính tiến sĩ khoa
Kỷ Hợi đời Lê, nhà Lê mất nước, không theo giặc. Gia Long sơ, triệu vào
hầu, bổ làm Học sĩ điện Thái Hòa, làm Đốc học kinh Bắc, kiêm đốc học
Thái Nguyên, Lạng Sơn và Cao Bằng.
Ngô Tiêm, người huyện Vọng Doanh tỉnh Nam Định, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ
Hợi đời Lê, nhà Lê mất nước không làm quan với giặc. Gia Long sơ, triệu
vào hầu, cho chức học sĩ điện Thái Hòa, làm Đốc học Sơn Tây, kiêm Đốc
học cả Hưng Hóa và Tuyên Quang.
Nguyễn Đình Tứ
Người huyện Chương Đức tỉnh Hà Nội, đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Tỵ đời Lê. Nhà
Lê mất nước, không chịu theo giặc. Gia Long sơ, triệu vào hầu cho chức
Học sĩ điện Thái Hòa, làm Đốc học phủ Phụng Thiên (nay là Hoài Đức),
từng làm quan đến Hiệp trấn tỉnh Tuyên Quang.
Nguyễn Đường, người huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến sĩ
khoa Kỷ Hợi đời Lê. Đường là cháu của Tiến sĩ Nguyễn Trọng Thường, và
cháu họ Nguyễn Trọng Đang, làm quan đến Hiến sát sứ Sơn Nam, vâng
mệnh đi sứ sang nước Thanh, chú cháu cùng triều, 3 đời phụng mệnh đi sứ,
người đều cho là vinh. Nhà Lê mất nước, không theo giặc, ngầm ạy học.
Gia Long sơ, triệu vào hầu cho cho chức Học sĩ Kim Hoa, làm Đốc học
Sơn Nam Thượng. Năm thứ 10, triệu làm chức Toản tu, làm sử, vì có bệnh
xin cáo từ rồi chết, thọ 66 tuổi.