bằng đoạn thêu con mãng xà đều mỗi người 1 chiếc, quần đều 1 chiếc, viên
bồi sứ có 5 người đều mỗi người 60 lạng bạc, áo mỗ bụng bằng thung thúc
mỗi người 1 chiếc, quần đều 1 chiếc; quân theo hầu 40 người, mỗi người
đều có 4 lạng bạc, áo mỗ bụng bằng đoạn lông màu hồng, mỗi người đều 1
chiếc, quần đều 1 chiếc. Sai đình thần viết thư trả lời, và sai Quản cơ là
Nguyễn Văn Uẩn, Chánh tuần hải đô doanh là Hoàng Trung Đổng quản
xuất đem binh thuyền cấp cho tiền lương 6 tháng, tiễn sứ giả đến đầu địa
giới Miến Điện trở về.<
Năm Minh Mạng thứ 5, nước Anh-cát-lợi xâm lấn nước Miến, vua nước
Miến đem binh đón đánh, quân Anh thua to. Rồi sau người Anh lại đem
binh thuyền vào Nộ cảng (tức cửa sông Nộ). Người Miến cố sức đánh
chống lại, vì bị pháo đạn oanh tạc, quân bị tan vỡ. Quân Anh sắp tới gần đô
thành, vua Miến bất đắc dĩ phải nghi hòa, cắt nhượng chỗ đất rộng ở bãi
biển làm nơi đỗ thuyền buôn bán của người Anh, người Miến thưpừng để
lòng báo phục nhưng chưa thể làm được.
Năm Minh Mạng thứ 11, sai trấn thần Hưng Hóa phái người đến do thám
nước ấy, gặp người Miến cùng với nước Nam Chưởng đánh nhau, phái viên
mới qua núi Cứu Hạn (thuộc địa giới tỉnh Hưng Hóa) đến Bản Khấu (thuộc
địa giới Miến Điện) có quân Miến ngăn đường không đến được phải quay
về (từ tỉnh thành Hưng Hóa đến núi Cứu Hạn đi hết 1 tháng 8 ngày, lại đến
Bản Khấu hết 3 ngày, phái viên nói lính ngăn đường bảo rằng: đến Miến
thành lại 1 tháng nữa).
Năm Thiệu Trị thứ 4, mùa xuân, viên Thủ đốc Sơn Hưng Tuyên là Nguyễn
Đăng Giai nghe nói tên giặc của ngụy Tây mới nảy ra là Phan Hữu Phú (là
con ngụy Tây Đô đốc Phan Văn Trương, Quản phủ huyện Phù Cát, trấn
Bình Định, ngụ ở châu Mai Sơn trấn Hưng Hóa), trốn ở địa hạt tỉnh Điện
Biên. Giai bèn phái bọn thổ hào ở Hưng Hóa là Sầm Nhân Tráng, Siêu
Chính Dinh đến do thám. Khi đến xứ Bắc Tần thuộc Lai Châu, giáp châu
Quảng Lăng nước Thanh thì bắt được bọn Hữu Phú 8 tên, còn bọn sót lại