phong là Phúc quốc công. Vợ là Hoàng thị cũng phong là Phúc quốc nhất
phẩm phu nhân. Lập đền thờ ở Vạn Xuân. Lại truy phong 4 đời họ Hồ,
dựng đền riêng để thờ, gọi là Hồ tộc từ. Năm Tự Đức thứ 5, đổi làm Dụ
trạch từ.
Ông có 2 con trai là Lưu và Thập. Lưu được tập ấm n kị úy, từng làm quan
đến Tiền phong doanh Đô thống chế. Thập làm quan đến Vệ úy sung nhất
đẳng thị vệ. Khi Hiến Tổ Chương hoàng đế ta răn về sự họ ngoại thích dần
dà ra làm việc, liền cho Lưu vẫn giữ hàm Thống chế, Thập vẫn giữ hàm
Chưởng vệ thị vào triều yết.
Phạm Đăng Hưng tên tự là Hiệt Củ (46) người Tân Hòa, thành Gia Định.
Cao tổ (tổ 14 đời) của ông thi đỗ, học rộng có tiếng là văn hay. Khoảng
năm Chính Trị (47) đời Lê, giữ
nghĩa không thờ họ Trịnh. Đương khi Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế ta mở cơ
nghiệp ở Thuận Hóa, ông đem cả họ vào miền Nam, bắt đầu nhập tịch ở Vũ
Xương, sau dời đến Hương Trà. Tằng tổ ông là Đăng Tiên vì có văn học bổ
làm huấn đạo huyện Tư Ngh
ĩa, nhân dời nhà đế Sơn. Tổ là Đăng Xương thiên đến huyện Tân Hòa ở Gia
Định. Cha là Đăng Long, nổi tiếng là người có văn học, đi ẩn dạy học, học
trò gọi là Kiến Hòa tiên sinh.
Ông lúc còn nhỏ thông minh nhanh nhẹn, lúc lớn ham học hỏi. Gặp khi
thiên hạ nhiều việc hăng chí về công nghiệp. Phàm các thể yếu của nhà
nước, lễ nhạc cho đến binh thư, lịch pháp, không thứ gì là không học tập
cho thông. Buổi đầu trung hưng, khoa Bính Thìn tam trường thi trúng cách,
bổ làm phủ lễ sinh, sung vào viện Cống sĩ, lại thiên làm Tham luận vệ Phấn
vũ, theo quân tiến đánh ở Phú Yên, khi trở về, vừa gặp người Diến Điện
đánh nước Xiêm, nước Xiêm cầu viện trợ ở ta. Ông theo đại đội quan quân
ta ra biển đến cứu viện. Người Diến Điện nghe có quân cứu viện, tức thì rút
lui. Đại binh trở về. Năm Kỷ Mùi thăng Lại bộ tham tri.