ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 2 - Trang 82

quân ứng nghĩa. Năm Kỷ Tỵ theo Lê Văn Duyệt đóng đồn ở Sa Lung, ngăn
chặn quân viện trợ ở ngoài của giặc. Khi đã lấy dược Quy Nhơn, lại cùng
Cai cơ là Hoàng Công Khánh đóng giữ hai bảo Mi Sơn, Vũ Khê. Kịp khi
giặc đến, lui về thành Bình Định, theo Tánh ở giữ. Mùa hạ năm Tân Dậu
(1801) Tánh lên lầu tự đốt lửa để chết, Huyên ở ngoài lại, Tánh hỏi rằng
ngươi lại đây có việc gì? Huyên thưa rằng: "Xin theo ông cầm roi ngựa đi
theo ở dưới đất". Nói chưa dứt lời lửa bốc lên Huyên tức thì gieo mình vào
trong đám lửa. Vua nghe tin ấy khen ngợi, sai quan ở doanh Quảng Ngãi
hậu cấp cho người nhà, tặng là Tuyên lực Công thần, Đặc tiến Phụ quốc
Chiêu nghị Tướng quân, Cẩm y vệ chưởng sự, Chưởng cơ, tên thụy là
Tráng Liệt, liệt vào thờ ở đền Chiêu trung và đền Hiển trung và miếu Trung
Hưng công thần.

Con là Quang, làm quan đến Hữu thủy phó vệ úy. Buổi đầu năm Thiệu Trị,
tiễu giặc ở Ba Xuyên chết tại trận, tặng là Cấm binh phó vệ úy. Con của
Quang là Ngoạn tập ấm là Phụng n úy.

Ngô Tòng Chu

Ngô Tòng Chu là người ở Phù Cát trấn Bình Định, khi trước ngụ ở Gia
Định, theo học Vũ Trường Toản. Tòng Chu là người ngay thẳng trung hậu,
có khí tiết, học hành thuần chính, buổi đầu bổ vào viện Hàn lâm, rồi thăng
Chế cáo, coi việc Điền tuấn (52) thăng mãi đến Lễ bộ tham tri, ra làm ký
cung phụ đạo. Tòng Chu cố tự nói rằng thần tài ít hạnh kém, tự hổ được
ghé vào ban Văn, chỉ sợ bỏ thiếu chức vụ, về chức phụ đạo, thần sợ không
làm nổi.

Vua nói: Đông cung là ngôi trừ nhị của nước, chọn người làm sư phó,
không ngươi thì không được, ngươi chớ từ. Tòng Chu đã nhận chức hết
lòng sửa chữa nói thẳng kh

ng ẩn giấu gì, Đông cung rất trọng.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.