ĐẠI NAM LIỆT TRUYỆN - TẬP 4 - Trang 296

Tự là Thoái Chi, người Yên Thành, Nghệ An. Đỗ hương tiến Tự Đức năm
thứ 11 (1858). Bắt đầu thụ chức Hàn lâm viện điển tịch đi hậu bổ ở tỉnh
Thanh Hóa. Qua thay công việc ở các huyện Hoàng Hóa, Mỹ Hóa và Đông
Sơn, sau thăng tu soạn lĩnh Huấn đạo Quỳnh Lưu. Năm thứ 26 (1873),
được cất lên Trước tác sung hải phòng Thương biện Nghệ An, phòng bị có
phương pháp. Sau vì có đại tang rời chức. Năm thứ 33 (1880) triệu ra bổ
Viên ngoại lang Bộ Hộ, sung Vũ khố phó giám lâm, lâu rồi bổ Nội vụ phủ
lang trung. Kiến Phúc năm đầu (1884) thăng Hổng lô tự khanh biện lý Hộ
bộ sự vụ rồi ốm về, mất năm 57 tuổi.

Văn Liêm ngày thường thờ cha mẹ có hiếu, làm quan có tiếng ngay thẳng.
Trước tên là Sính, sau đổi ra tên này.

Hoàng Xuân Phùng

Người La Sơn, Hà Tĩnh, nhà nghèo chăm học. Đỗ hương tiến Tự Đức năm
thứ 11 (1858). Bắt đầu bổ giáo thụ phủ Thường Tín. Năm thứ 24 (1871) bổ
Tri huyện Kim Thành. Gặp bấy giờ giặc biển vùng Quảng Yên hung hăng
đánh, cướp huyện làng, Xuân Phùng mang lệ và dân hết sức giữ huyện ấy
riêng được toàn vẹn, được cất lên Tri phủ Kiến Thụy. Khi mãn trật được bổ
Viên ngoại lang Công bộ, rồi bổ Lang trung. Sau bị đổi xuống Viên ngoại
lang. Rồi lĩnh Đốc học Quảng Trị xong lại vào làm tào lang. Năm thứ 34
(1881) lĩnh Án sát sứ Lạng Sơn , gặp lúc việc quân nổi lên, về Kinh chờ
lệnh. Hồi đầu Đồng Khánh lĩnh án sát sứ Quảng Trị. Năm sau triệu về lĩnh
Tuần ủ Hà Tĩnh kiêm biện công việc tiểu phủ. Nhậm chức xong, liền đem
thời thế hiểu dụ (cho dân), những kẻ lầm đường, lạc lối nhất thời phần
nhiều theo. Mới được mấy tháng thời ốm rồi mất, năm ấy 68 tuổi, được
truy thụ Quang lộc tự khanh.

Trần Hy Tăng

Tự là Vọng Thù. Trước tên là Bích San, sau được vua ban cho tên hiện nay.
Người Mỹ Lộc, Nam Định. Cha tên là Doãn Đạt, học rộng, đỗ Ất khoa kỳ

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.