ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ - Trang 122

209

Việt sử lược (q.1) chỉ ghi con số 5.000 gian.

210

Cương mục đã nhận xét rằng kênh ấy không thuộc địa phận nước ta

(CMTB5, 12a). Có thể là ghềnh Bắc Thú, ở huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng
Tây, Trung Quốc ngày nay.

211

Nguyên bản in: "Cái sở hợp lý ....", có lẽ câu văn là "Cái sở hành hợp

lý ....", mà khắc in sót chữ hành.

212

Nguyên bản in: "Cổn đại Biền, phủ tự hữu thanh", có thể hiểu là: .....

có tiếng về chữ "phủ" (vỗ về dân chúng). Nhưng có khả năng in nhầm: "...
phủ dân hữu thanh" (có tiếng biết vỗ về dân chúng).

213

Khúc Hạo: người làng Cúc Bồ, huyện Ninh Thanh, tỉnh Hải Hưng

ngày nay, ở đó hiện còn đình thờ họ Khúc. Cương mục dẫn sách An Nam
kỷ yếu, ghi thêm: "Cuối thời Đường, Khúc Hạo làm Tiết độ sứ thay cho
Độc Cô Tôn; đổi các hương ở các huyện làm giáp, đặt ở mỗi giáp một viên
quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế. Hạo giữ chức Tiết độ
sứ được hơn 4 năm thì mất" (CMTB5, 15a).

214

Nam Hán: 1 trong 10 nước thời Ngũ Đại ở Trung Quốc bao gồm cả

tỉnh Quảng Đông, phần phía nam Quảng Tây, nam Phúc Kiến ngày nay,
trước sau 67 năm (905-971), gồm 5 đời làm vua.

215

Cương mục theo Tư trị thông giám ghi Khúc Thừa Dụ được trao chức

Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, năm Thiên Hựu thứ 3 (906) được thăng Đồng
bình chương sự (CMTB5, 14a).

216

Nghiễm _____ (trên chữ long là rồng, dưới chữ thiên), nguyên bản

khắc thiếu 1 nét thành trên chữ long dưới chữ đại, không có trong tự điển.
Còn chữ đã ghi (long + thiên), bản dịch cũ phiên là Yểm, bản dịch Cương
mục phiên là Yêm. Thực ra, chữ này có hai âm Hán Việt là Yểm và

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.