nhiều tác giả
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
Ngoại Kỷ Toàn Thư Q 1
Hồng Bàng, An Dương Vương
[1a] Triều Liệt Đại Phu, Quốc Tử Giám Tư Nghiệp, Kiêm Sử Quan Tu
Soạn, Thần Ngô Sĩ Liên Biên
Xét: Thời Hoàng Đế dựng muôn nước, lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây
Nam, xa ngoài đất Bách Việt. Vua Nghiêu sai Hy thị
1
đến ở Nam Giao
2
để
định đất Giao Chỉ ở phương Nam. Vua Vũ chia chín châu
3
thì Bách
Việt
4
thuộc phần đất châu Dương, Giao Chỉ thuộc về đấy. Từ đời Thành
Vương nhà Chu [1063-1026 TCN] mới gọi là Việt Thường thị
5
, tên Việt bắt
đầu có từ đấy.
Kỷ Hồng Bàng Thị
Kinh Dương Vương
[1b] Tên húy là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông
6
.
Nhâm Tuất, năm thứ 1
7
. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế
Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ
Lĩnh
8
lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc
thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố
nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con
nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương,
cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.
Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long
9
sinh ra Lạc Long Quân
(Xét: Đường kỷ chép: thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng
là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết
thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động
Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi).
Lạc Long Quân
[2a] Tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương.
Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh