thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử. Đến nay, vua
sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, quả là [2a] ứng nghiệm.
Canh Tuất, Thuận Thiên năm thứ 1 [1010] , (Tống Đại Trung Tường Phù
năm thứ 3). Mùa xuân, tháng 2 xa giá, về châu Cổ Pháp, ban tiền lụa cho
các bô lão trong làng theo thứ bậc khác nhau.
Sai Viên ngoại lang Lương Nhậm Văn và Lê Tái Nghiêm sang nước Tống
để kết hảo.
Vua thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật hẹp, không đủ làm chỗ ở của đế
vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu truyền rằng: "Ngày xưa, nhà
Thương đến đời Bàn canh năm lần dời đô, nhà Chu đến Thành Vương ba
lần dời đô, há phải các vua thời Tam đại ấy theo ý riêng tự dời đô xằng bậy
đâu. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con
cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện
thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà
Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ
Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại [2b] không dài,
vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn,
không thể không dời. Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương
377
, ở
giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc
đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng
phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn
vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa,
thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư
mãi muôn đời. Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ
thế nào?"
Bề tôi đều nói: "Bệ hạ vì thiên hạ lập kế dài lâu, trên cho nghiệp đế được
thịnh vượng lớn lao, dưới cho dân chúng được đông đúc giàu có, điều lợi
như thế, ai dám không theo". Vua cả mừng.
Mùa thu, tháng 7, vua [3a] từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ ở thành Đại
La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó
đổi tên thành gọi là thành Thăng Long. Đổi châu Cổ Pháp gọi là phủ Thiên