Than ôi! Bề tôi gian tà giao kết với người ở trong cung đình để đến nỗi làm
hỏng việc của người, từ xưa vẫn có. Song việc Từ Văn Thông và ba phu
nhân này chẳng còn hơn việc dạy Vệ Vương
619
phải vâng mệnh ư? Tuy thế
truyền ngôi cho con đích là lẽ thường xưa nay, nếu được người giúp là bậc
hiền như Y Doản, Chu Công giúp Thái Giáp và Thành ương thì để tiếng
khen đời sau mãi mãi.
Chú thích:
502 Minh văn: bài văn khắc trên các đồ kim khí như chuông, đỉnh hoặc trên
bia đá.
503 Phốc đầu: tên mũ, tức là mũ cánh chuồn, có hai dải cánh giương ra hai
bên.
504 Dâm Đàm: tức Hồ Tây ở Hà Nội, xem BK2, 35b.
505 Nguyên văn: "Hậu nhân mục kỳ xứ viết". Chữ ____ "mục" trong câu
này không hợp nghĩa (người sau nhìn xứ ấy (?), gọi là ......), có lẽ là chữ
____ vị ( ... vị kỳ xứ viết ...)
506 Huyện Từ Liêm: nay thuộc Hà Nội.
507 Núi Tiên Du: xem chú thích BK2, 22B
508 Trảo Oa: phiên âm tên đảo Java (Indonesia)
509 Ngưu Hống: tộc người Thái ở vùng Sơn La, có thể là người Thái Đen.
Ngưu Hống có thể là phiên âm tên Ngù Háu trong tiếng Thái, có nghĩa là
"Rắn hổ mang". Theo Quắm tố mướu (truyện kể bản Mường) của người
Thái Đen thì chúa Lò Rẹt ở Mường Muổi (khoảng thế kỷ XIV) lấy hiệu là
Ngù Háu. Nhưng Ngù Háu có thể là hình tượng của tộc Thái Đen từ trước
510 Sĩ sư: tên chức quan coi việc hình pháp ở Đô hộ phủ (Đô hộ phủ vốn là
tên gọi cơ quan cai trị cấp châu đời Đường, các triều đình Đinh, Lê, Lý vẫn
giữ tên Đô Hộ Phủ, nhưng chỉ chuyên việc hình pháp)
511 Thư gia: Theo Lê Quý Đôn, thư gia tức là ty lại (Kiến Văn Tiểu Lục,
bản dịch, Nxb Sử học, 1962, tr. 129 - 130), có thể cũng như tên gọi "thư
lại" đời sau. Phan Huy Chú ghi tên các thư gia như: Nội hỏa thư gia, Ngự
khố thư gia, Chi hậu thư gia, Nội thư gia, Lệnh thư gia v.v ... (Lịch triều
hiến chương loại chí, bản dịch, T.2, Nxb Sử học, 1962, tr. 6)