theo không ngờ vực. Thế mới là làm cho người khác phục mình sâu sắc và
là cội gốc của vương chính. Đâu có thể nói [chữ tín] chỉ là chuyện nhỏ
nhặt.
Tháng 3, ngày mồng 1, nhật thực.
Mùa hạ, tháng 4, định công dẹp giặc Nguyên.
Tiến phong Hưng Đạo Vương làm Đại Vương, Hưng Vũ Vương làm Khai
Quốc công, Hưng Nhượng Vương làm Tiết độ sứ. Người nào có công lớn
thì được ban quốc tính. Khắc Chung được dự trong số đó, lại được nhận
chức Đại hành khiển. Đỗ Hành chỉ được phong [57a] Quan nội hầu, vì khi
bắt được Ô Mã Nhi không dâng lên quan gia
909
, lại dâng lên Thượng
hoàng. Hưng Trí Vương không được thăng trật, vì đã có chiếu cho người
Nguyên về nước, các tướng không được cản trở, mà lại còn đón đánh
chúng. Cho Man trưởng Lạng Giang Lương Uất làm trại chủ Quy Hóa. Hà
Tất Năng làm Quan phục hầu vì đã chỉ huy người Man đánh giặc.
Việc thưởng tước đã xong, vẫn còn có người chưa bằng lòng. Thượng
hoàng dụ rằng:
"Nếu các khanh biết chắc là giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói rõ cho
trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế
mà đã vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, và các khanh lại lập công
nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ".
Mọi người đều vui vẻ phục tùng.
Tháng 5, trị tội những kẻ đã hàng giặc. Chỉ quân lính và dân thường được
miễn tội chết, nhưng bắt chở gỗ đá, xây cung điện để chuộc tội, quan viên
phạm tội [57b] [hàng giặc] thì tùy tội nặng nhẹ mà xét xử.
Lấy Phùng Sĩ Chu làm Hành hiển.
Sĩ Chu người [xã] Cổ Liễu, Trà Hương. Khi người Nguyên sang, vua sai Sĩ
Chu bói. Sĩ Chu đoán rằng: "Thế nào cũng đại thắng".
Vua mừng bảo; "Nếu đúng như lời đoán, sẽ có trọng thưởng".
Giặc yên, vua nói: "Thiên tử không có nói đùa". Do đấy, có lệnh này. Sĩ
Chu là người trung hiếu, có tài văn nghệ, làm quan đến Thiếu phó, hiệu là
Tốn Trai tiên sinh.