Dùng tên thú đặt cho người, nói lên địa vị làm "nô" thấp kém của họ. Trong
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên đời Trần, các nô tỳ có một vai trò rất
lớn.
844 Bãi Tân: là một địa điểm trên sông Lục Nam.
845 Bắc Giang: tức là vùng đất tỉnh Bắc Ninh cũ, nay thuộc tỉnh Hà Bắc.
846 Ô Mã Nhi: phiên âm từ tên Hồi giáo Omar.
847 Núi Phả Lại: tức là núi ở xã Phả Lại, cạnh sông Lục Đầu, đối diện với
thị trấn Phả Lại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Hưng.
848 Thực ra, ngày mồng 6 tháng giêng mới chỉ là ngày Ô Mã Nhi đánh vào
phòng tuyến sông Bình Than. Mãi đến ngàu mồng 9 (14-2- 1258), sau trận
thủy chiến lớn, quân ta mới rút.
849 Vũ Ninh: sau là Võ Giàng, nay là huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
850 Đông Ngàn: tức là huyện Từ Sơn, nay là huyện Tiên Sơn, tỉnhBắc
Ninh.
851 Thát: tức là Thát Đát, phiên âm từ Ta-ta (Tatar hay Tarta) chỉ người
Mông Cổ. Sát Thát nghĩa là giết giặc Thát Đát.
852 Ngựa kỳ, ngựa ký: chỉ những loại ngựa quý, ngựa tốt.
853 Hàn Tín: là tướng của Hán Cao Tổ, muốn đánh nước Yên, theo kế của
Lý Tả Xa viết thư dụ trước, quả nhiên nước Yên đầu hàng.
854 Chích: Là một tên cướp sừng sỏ trong truyền thuyết Trung Quốc.
855 Nghiêu: Là vị hoàng đế lý tưởng trong truyền thuyết Trung Quốc.
856 Cánh quân do Toa Đô chỉ huy, được lệnh từ Chiêm Thành, đánh chiếm
các châu lộ phía nam của ta, rối tiến ra bắc, phối hợp với các đạo quân của
Thoát Hoan bao vây tiêu diệt vua tôi và quân đội nhà Trần.
857 Trần Kiện vốn có hiềm khích vơí hoàng tử Đức Việp. Khi giặc Nguyên
sang, Kiện được lệnh đóng giữ Thanh Hóa, Toa Đô tiến ra Thanh Hóa,
Kiện đem bọn liêu thuộc đầu hàng giặc.
858 Yên KInh: tức kinh đô nhà Nguyên.
859 Lạng Giang: tức Lạng Sơn ngày nay.
860 Trại Ma Lục: Ở Chi L:ăng thuộc châu Lạng Giang thời đó, nay là tỉng
Lạng Sơn.
861 Tam Trĩ nguyên: là sông Ba Chẽ, ở huyện Ba Chẽ, thuộc tỉnh Quảng