quyền. Đến khi con đích sinh ra, lớn lên, thì gia phong cho con thứ tước
vương, còn ngôi thái tử trả về con đích, ai bảo là chẳng nên?.
Có người hỏi rằng: "Lỡ có chuyện không lành, vua cha mất trước thì nguy
lắm".
Xin thưa: Hãy chămchú vào lời dạy thường ngày, nhận rõ lấy những lời
trong di chiếu, chọn người bề tôi xã tắc, ủy cho việc gửi gắm con côi, thì
không có lo gì. Huống chi Minh Tông chính mình ở vào cảnh ấy rồi, tất
nhiên có thể xử trí được ổn thỏa. Quốc Chẩn là người cố chấp không linh
hoạtt, để cho kẻ gian thần thừa dịp gieo vạ, đáng thương thay!.
Kinh dịch có câu: "Xét xem có chỗ sáng tỏ thông suốt mà thi hành điển lễ".
Quốc Chẩn có lẽ chưa nghe bao giờ! Nhưng mối oan của ôn không thể
không làm cho rõ.
Còn như Trần Khắc Chung cũng là nhân vật của một thời, vua trao cho hắn
chức vị sư bảo
1031
, và đem việc nước hỏi hắn, đáng lẽ phải hết lòng trung
khuyên can, để cho vua mình trở thành Nghiêu Thuấn mới phải. Thế mà lại
vào hùa với kẻ [47b] quyền quý, làm hại người ngay thẳng, đi theo bọn
gian tà, đẩy người lành tới nỗi oan khiên, hãm đức vua vào việc làm tội lỗi.
Việc ấy mà nhẫn tâm làm được, thì còn việc gì mà không nhẫn tâm làm
nữa? Sau lại xui vua cầu công đi đánh Chiêm Thành, thì cái thói nịnh hót
lại lộ ra nữa. Cho nên, bậc làm vua khi dùng người hiền, phải xét kỹ họ, là
bởi sợ rằng có đứa tiểu nhân như bọn Khắc Chung có thể lọt vào trong đó
vậy.
Lập hoàng tử Vượng làm Đông cung thái tử; phong con thứ là Nguyên Trác
làm Cung Tĩnh Đại Vương.
Kỷ Tỵ, [Khai Thái] năm thứ 6 [1329], (từ tháng 2 trở đi là Khai Hựu năm
thứ 1, Nguyên Đại Lịch năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 7, sách
phong Đông cung thái tử Vượng làm Hoàng thái tử.
Ngày 15, vua nhường ngôi, Vượng lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Khai
Hựu năm thứ 1. Đại xá. (Vua tự) xưng là Triết Hoàng, Tôn Thượng hoàng
là Chương Nghiêu Văn Triết Thái Thượng [48a] Hoàng Đế. Tôn Lệ Thánh
hoàng hậu làm Hiến Từ thái thượng hoàng hậu (Hiến có sách chép là Huệ).