Trở lên là [kỷ] thuộc nhà Hán, từ năm Tân Mùi đến năm Kỷ Hợi, cộng 149
năm [110 TCN - 39].
[2a]
Kỷ Trưng Nữ Vương
Trưng Vương
Ở ngôi 3 năm.
Vua rất hùng dũng, đuổi Tô Định, dựng nước xưng vương, nhưng vì là vua
đàn bà, không thể làm nên công tái tạo.
Tên húy là Trắc, họ Trưng. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện
Mê Linh
65
, Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên
66
. (Thi Sách
cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau. Sách Cương
mục tập lãm lấy Lạc làm họ là lầm). Đóng đô ở Mê Linh.
Canh Tý, năm thứ 1 [40], (Hán Kiến Vũ năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2,
vua khổ vì Thái thú Tô Định dùng pháp luật trói buộc, lại thù Định giết
chồng mình, mới cùng với em gái là Nhị nổi binh đánh hãm trị sở ở châu.
Định chạy về nước. Các quận Nam Hải, Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố
đều hưởng ứng, lấy được [2b] 65 thành ở Lĩnh Nam, tự lập làm vua, mới
xưng là họ Trưng.
Tân Sửu, năm thứ 2 [41], (Hán Kiến Vũ năm thứ 17). Mùa xuân, tháng 2,
ngày 30, nhật thực. Nhà Hán thấy họ Trưng xưng vương, dấy quân đánh lấy
các thành ấp, các quận biên thùy bị khổ, mới hạ lệnh cho Trường Sa, Hợp
Phố và Giao Châu ta sắp sẵn xe thuyền, sửa sang cầu đường, thông các núi
khe, chứa thóc lương, cho Mã Viện làm Phục Ba tướng quân, Phù Lạc hầu
Lưu Long làm phó sang xâm lược.
Nhâm Dần, năm thứ 3 [42], (Hán Kiến Vũ năm thứ 18). Mùa xuân, tháng
giêng, Mã Viện theo ven biển mà tiến, san núi làm đường hơn nghìn dặm,
đến Lãng Bạc (ở phía tây Tây Nhai của La Thành, gọi là Lãng Bạc)
67
đánh
nhau với vua. Vua thấy thế giặc mạnh lắm, tự nghĩ quân mình ô hợp, sợ
không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử chép là Kim
Khê). Quân cũng cho vua là đàn bà, sợ không đánh nổi địch, bèn tan chạy.
Quốc thống lại mất.