Trước kia, các nhà tôn thất thường sai nô tỳ của mình đắp đê bồi ở bờ biển
để ngăn nước mặn, sau hai ba năm, khai khẩn thành ruộng, cho họ lấy lẫn
nhau và ở ngay đấy, lập ra nhiều ruộng đất tư trang, cho nên có lệnh này.
Hữu thiêm tri chính sự [31a] hành Khu mật viện sự Phạm Cự Luận chỉ huy
quân Thần Sách đánh bọn giặc cỏ áo đỏ ở trấn Tuyên Quang, thua trận bị
chết, được tặng Tả bộc xạ (Cự Luận người huyện Đườn An
1264
. Lấy Hành
khiển Đỗ Thế Mãn thay làm Kinh luợc sứ Tuyên Quang.
Mùa đông, tháng 11, Quý Ly bức vua dời kinh đô đến phủ Thanh Hóa .
Vua đi Yên Sinh bái yết các lăng trước, rồi tới hành tại ở hương Đại Lại gọi
là cung Bảo Thanh. Cung nhân Trần Ngọc Cơ và Trần Ngọc Kiểm nói mật
với vua là dời kinh đô thế nào cũng có việc cướp ngôi. Quý Ly nghe được,
cho rằng viên miếu lệnh Lê Hợp, viên phụ đạo Hữu Lũng
1265
là Lương Ông
cũng đồng mưu, đem giết cả.
Hành khiển đồng tri Đại tông chính tự Lương Nguyên Bưu đỡ gạch ngói,
gỗ lớn ở các cung điện Thụy Chương, Đại An, giao hết cho các châu Từ
Liêm và Nam Sách chở tới kinh đô mới, gặp bão chìm [31b] đắm mất quá
nửa .
Nhà Minh sai đưa hai người tộc họ nhà Nguyên là Đại Hồ và Tiểu Hồ sang
an trí ở nước ta. Cho Đại Hồ tên là Địa Phục Cơ, Tiểu Hồ tên là Địa Bảo
Lang.
Tướng Chiêm Thành là Chế Đa Biệt cùng với em là Mộ Hoa Từ Ca Diệp
đem cả nhà sang hàng. Ban tên cho Đa Biệt là Đại Trung, phong là Kim
Ngô vệ tướng quân, Ca Diệp làm Cấm vệ đô, đều ban họ Đinh, lại cho trấn
thủ Hóa Châu để chống giữ Chiêm Thành.
Mậu Dần, [Quang Thái] năm thứ 11 [1398], (từ tháng 3 trở đi là Thiếu Đế
Kiến Tân năm thứ 1, Minh Hồng Vũ năm thứ 31). Mùa xuân, tháng 3, ngày
15, Lê Quý Ly bức vua phải nhường ngôi cho hoàng tử An
1266
.
Quý Ly có ý cướp ngôi, nhưng đã trót thề với Nghệ Hoàng rồi, sợ trái lời
thề, bèn ngầm sai đạo sĩ Nguyễn Khánh ra vào trong cung, thuyết phục vua
rằng:
"Cõi tiên thanh nhã thơm tho, khác hẳn phàm trần, [32a] Liệt thánh triều ta