về, Tùng do đi đường hiểm, lỡ mất quân cơ, đáng phải xử chém. Nhưng vì
có công lao hồi còn tiềm để
1299
được tha tội chết, đề làm xã binh.
Hán Thương đặt kho thường bình
1300
, phát tiền giấy cho các lộ, theo giá cả
mua thóc chứa vào kho. Bấy giờ số quan lại ở các lộ, phủ, châu, huyện có
thay đổi, nên không làm được.
Hán Thương đặt hương đình quan, có chánh, có phó, sau chỉ dùng một
viên.
Hán Thương hạ lệnh cho các lộ nung gạch để dùng vào việc xây thành.
Trước đây xây thành Tây Đô, tải nhiều đá tới xây, ít lâu sau lại bị sụp đổ,
đến đây mới xây trên bằng gạch, dưới bằng đá.
Hán Thương định quan chế và hình luật nước Đại Ngu.
Mùa đông, tháng 12, Hán Thương lấy Nguyễn Phi Khanh làm Hàn lâm học
sĩ.
[40b] Nhâm Ngọ, [1402], (Hán Thương Thiệu Thành năm thứ 2, Minh
Kiến Văn năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 2, Hán Thương xét duyệt quân ngũ.
Tháng 3, Hán Thương đắp sửa đường sá từ thành Tây Đô đến Hóa Châu.
Dọc đường đặt phố xà và trạm truyền thư, gọi là đường thiên lý.
Mùa hạ, tháng 6, Hán Thương lấy Đồng Thức làm Trung tán, ban cho họ
Ngụy (ví với Ngụy Trưng
1301
nhà Đường).
Mùa thu, tháng 7, Hán Thương đem đại quân đi đánh Chiêm Thành. Lấy
Đỗ Mãn làm Đô tướng; Điện nội phán thủ Nguyễn Vị làm Chiêu dụ sứ; An
phủ sứ lộ Đông Đô Nguyễn Bằng Cử làm Đồng chiêu dụ sứ.
Đại quân sắp tới đất Chiêm, Đinh Đại Trung cưỡi ngựa đi trước các quân,
gặp tướng giặc Chế Tra Nan, hai bên giao chiến, đều bị chết.
Chúa Chiêm Ba Đích Lại sợ, sai cậu là Bố Điền dâng một voi trắng, một
voi đen và các sản vật địa phương, lại dâng đất Chiêm Động
1302
để xin rút
quân.
Bố Điền tới, Quý Ly bắt ép [41a] phải sửa tờ biểu là dâng nộp cả động Cổ
Lũy
1303
. Rồi chia đấy ấy thành bốn châu Thăng,Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt An
phủ sứ và An phủ phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trị; miền đầu nguồn đất ấy
thì đặt trấn Tân Ninh
1304
. Chiêm Thành thu lấy những dân phụ cận đưa về