Tự có cảm giác mình trở lại trạng thái xác định, khi cái Hoạt đột ngột rời
căn gác xuống nhà đi chợ. Cảm giác ấy có lẽ là do phong thái u trầm của
căn gác khơi gợi. Cũng là do sự tĩnh mặc và mùi hương xưa cũ tỏa ra từ
những cuốn sách xếp trên giá không một chút vô tri, lặng lẽ một tiếng gọi rủ
rê anh về nguồn.
Sau những giờ phút ồn ã, tất bật, được lĩnh lặng, Tự mới nhận ra con
người ta thật là giàu có, và chẳng khi nào có thể bị tước đoạt hết sạch dược.
Người xưa nói: Chính thì tĩnh, tĩnh thì sáng. Điều đó hoàn toàn đúng với
anh lúc này. Cơn mưa gột rửa bầu trời. Sự yên tĩnh lau rửa hồn anh. Anh
như gương soi cho mọi người, như gương soi cho chính anh. Làm sao anh
lại kinh sợ cuộc sống hôm nay, muốn trở lại cái đời sống thô giản của loài
người nguyên thủy khi xưa?
Dẫu có thế nào thì anh vẫn yêu cái ngày hôm nay. Cái ngày hôm nay là
anh, chính là cái quả của muôn cuộc vận động, từ thời xưa con người còn
ăn lông ở lỗ đến bây giờ. Bởi vì, đã có một thời con người sống trong hang
động, sống thành bầy đoàn. Có cả một nền văn hóa hang động. Ấy là nền
văn hóa vật chất, là những điệu vũ quanh ngọn lửa, là những bức tranh khắc
trên vách hang. Có nhiều điều lý thú khi nghiên cứu nền văn hóa tinh thần
thời này. Trước hết, đó là ý thức bầy đàn biểu hiện rất rõ ở bức tranh một
cộng đồng người hình thành thế bao vây con thú. Sau đó là sự hiểu biết về
sức mạnh tâm linh của con người. Người nguyên thủy vẽ con tuần lộc lên
vách hang, không chỉ là để tập ngắm lao vào bắn tên nỏ. Người nguyên thủy
vẽ con tuộc được tức là chế ngự được con thú, họ tin ở sức mạnh không chỉ
là cơ bắp của mình.
Anh là con cháu người nguyên thủy. Anh đã vượt xa tổ tiên về cả hai
phương diện. Cộng đồng người của anh là tập hợp của những cá thể có ý
thức và bản lĩnh riêng. Anh và người khác vừa cố kết, vừa phân ly, vừa
nương tựa, vừa phủ định nhau. Sức mạnh cơ bắp của anh có thể là thua kém
bậc tổ tiên. Nhưng tinh thần, tư tưởng, tình cảm, tâm hồn anh là một thực