Hơn nữa, các sinh viên từ bỏ lối sống Kwakiutl không chỉ vì lối tiêu thụ
phô trương đã thực sự biến mất. Những phô trương khác về tài năng thiên
bẩm hay thành công đạt được, cũng đã bớt. Một ngôi sao bơi lội hàng đầu
trường cao đẳng đã nói với tôi: “Tôi thấy buồn phiền vì mấy gã tôi đua
tranh. Có gì đó không ổn ở tôi. Tôi ước mình có thể giống như X thực lòng
hợp tác với mấy anh chàng kia. Cậu ta không mấy để tâm đến chiến thắng”.
Dường như có một khoảng chênh giữa nước Mỹ mà sinh viên tạo ra cho
mình trong tư cách sinh viên với nước Mỹ họ nghĩ sẽ bước vào khi rời khỏi
trường đại học. Hình ảnh nước Mỹ thứ hai ở trong họ phần lớn dựa trên các
huyền thoại về nước Mỹ được giữ gìn trong nền văn học của chúng ta.
Chẳng hạn, nhiều tiểu thuyết gia và nhà phê bình xứ ta vẫn còn tin rằng Mỹ,
so với các nền văn hóa khác, là một dân tộc duy vật gồm những tù trưởng
Kwakiutl tương lai. Có thể có đôi chút sự thật trong hình ảnh này vào Thời
kỳ Vàng Son,
mặc dù Henry James đã thấy vấn đề chủ nghĩa duy vật
mơ hồ thế nào giữa Mỹ và châu Âu ngay từ hồi ấy.
Chủ nghĩa duy vật của những nền văn hóa lâu đời hơn này bị che mất
bởi các hệ thống địa vị của họ và bởi họ đã kế thừa nhiều giá trị từ giai đoạn
phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng. Đơn giản là dân châu Âu chưa
có tiền bạc và nhàn rỗi, cho đến những năm gần đây, để học đòi các mô
thức tiêu thụ Mỹ; khi họ đã học đòi rồi, thì họ duy vật, nếu có thể nói như
thế, đôi khi còn tầm thường hơn và duy vật hơn.
Tuy vậy, người châu Âu chỉ quá mừng vui nên chưa đến bảo người Mỹ
là mình duy vật; còn người Mỹ, cảm thấy mình là người mới phất trong thế
kỷ qua, trả tiền để được nghe người ta nói cho như vậy. Họ vẫn còn đang
trả: không chỉ sinh viên của tôi không thấy được rằng đã đến lượt phần thế
giới còn lại trở thành người mới phất, háo hức với các món đồ của một thời
đại công nghiệp, mà hàng triệu người Mỹ đã buồn chán ngoảnh mặt quay
lưng, không còn gán nhiều ý nghĩa tâm lý cho lĩnh vực hàng tiêu dùng nữa.