xem ra đổ nhiều hơn vào các cuộc cạnh tranh vì sự an toàn vô định hình có
được nhờ sự tán thành của nhóm đồng lứa. Nhưng cũng chính đang tranh
giành để nhận được sự tán thành nên cá nhân buộc phải kìm nén thái độ
cạnh tranh lộ liễu của mình. Trong trường hợp này, cụm từ “hợp tác đối
kháng”, mượn từ các bối cảnh khác, là rất thích hợp.
Biến chuyển này quan trọng đến độ chúng tôi sẽ dành riêng vài phần ở
Chương VI để nói cụ thể hơn, nhưng giờ chỉ cần lưu ý một số điều để tham
chiếu. Cha mẹ, nếu lần trở về thời trước, những gì họ vẫn làm dựa trên cấu
trúc tính cách bản thân, thì chính họ cũng tranh đua rất nhiều - thậm chí còn
lộ liễu hơn bọn trẻ. Phần lớn ý thức hệ của chúng ta - tự do kinh doanh, chủ
nghĩa cá nhân và hết thảy những thứ còn lại - đều mang tính cạnh tranh và
được truyền lại từ cha mẹ, thầy cô, và các phương tiện truyền thông đại
chúng. Đồng thời còn có chuyển biến lớn lao về mặt ý thức hệ ủng hộ sự
phục tùng nhóm, một chuyển dịch mà tính quyết định bị sự dai dẳng của các
hình mẫu ý thức hệ cũ che lấp đi. Nhóm ngang hàng trở thành thước đo cho
tất cả mọi thứ; không có mấy sự phòng vệ nào từ cá nhân mà nhóm không
đánh sập được. Trong hoàn cảnh này, động lực cạnh tranh cho sự thành đạt
trong bản thân đứa trẻ được ủng hộ bởi những tàn dư của kiểu nội tại định
hướng còn lại trong cha mẹ đứa trẻ là tác nhân dẫn đến xung đột với đòi hỏi
hợp tác do nhóm ngang hàng ủng hộ. Đứa trẻ do vậy buộc phải biến chuyển
nỗ lực cạnh tranh nhằm đạt được thành tích, như cha mẹ chúng đòi hỏi,
thành nỗ lực tự thân để có được sự tán thành từ đám bạn đồng lứa. Cả cha
mẹ, bản thân đứa trẻ và nhóm đồng lứa đều không ý thức được rõ ràng về
quá trình này. Kết quả là cả ba bên tham gia trong quá trình nêu trên không
thể biết được mức độ mà một ý thức hệ cá nhân của thời trước có thể đem
lại nguồn năng lượng để hoàn thiện các kiểu mẫu của một loại tính cách
mới hơn, định hướng theo nhóm.