ở các ảnh hưởng của hình tượng và sự kể chuyện lên khán giả trẻ em. Và dĩ
nhiên những ảnh hưởng này không thể xem xét tách rời với cha mẹ, thầy cô,
và các nhóm ngang hàng vận hành trên dây chuyền sản xuất tính cách. Giả
dụ, nếu chúng ta thấy một đứa trẻ có vẻ chịu ảnh hưởng từ sách vở nhiều
hơn mọi người, điều đó có thể vì đối với nó mọi người áp đảo đến độ nó
phải náu mình trong sách vở. Hơn nữa, các nền văn hóa khác nhau rất nhiều
về nhận thức mà chúng nhấn mạnh trong việc dạy trẻ biết phân biệt giữa
các hình ảnh với nhau và biết phân biệt giữa người với người. Nhưng nhìn
chung có vẻ như sẽ công bằng khi nói rằng những người kể chuyện là tác
nhân xã hội hóa không thể thiếu. Họ hình dung ra thế giới cho trẻ và nhờ
vậy đem đến cả hình dạng lẫn những giới hạn cho trí nhớ và trí tưởng
tượng.
Khi khảo sát cặn kẽ chủ đề này, chúng ta không nên lẫn lộn các thể loại
văn học với vấn đề các ảnh hưởng tâm lý - xã hội. Tôi sẽ dùng từ “truyện
kể” rộng rãi trong chương này để bao gồm không chỉ thơ ca và truyện hư
cấu mà còn bất cứ miêu tả bịa đặt và thêu dệt nào: một phim thời sự “có
thực” theo định nghĩa này cũng có thể là một truyện kể.
Các xã hội trong giai đoạn chớm giảm dân số có đủ khả năng, nói chính
xác là cung cấp, và vừa có thời gian vừa có nhu cầu tiếp nhận một lượng
dồi dào hình tượng từ các trung tâm truyền bá ở đô thị. Nền công nghiệp và
khả năng biết đọc biết viết của dân chúng có vẻ như đi cùng với nhau. Hơn
nữa, cũng chính những xã hội này, dựa vào các tác nhân hình thành tính
cách bên ngoài gia đình nhiều hơn những người đi trước. Do vậy, như
chúng ta nghĩ, những người kể chuyện thông qua phương tiện truyền thông
đại chúng giữ một vai trò đáng kể trong nhóm trẻ bị ngoại tại định hướng.
Chúng ta có thể thấy những gì đã thay đổi trong các thế hệ gần đây, chỉ cần
đem đối chiếu kinh nghiệm ngày nay với kinh nghiệm của trẻ em trong các
xã hội phụ thuộc vào kiểu truyền thống định hướng và nội tại định hướng.