II. Hòa hợp và tư hữu hóa ở phụ nữ
Như với “các thiểu số” khác, giáo dục và sự giải phóng một phần đối với
phụ nữ đã đặt “đa số” (trong trường hợp này là đàn ông) vào một vị thế
nhập nhằng. Họ không còn được che chở trước phụ nữ nhờ một phép xã
giao cứng nhắc hay các dàn xếp chính thức khác. Hơn nữa, như trước đây
chúng ta đã thấy, phụ nữ đưa ra những đòi hỏi tình dục và để ngỏ các tiềm
năng tình dục mà mẹ họ không bao giờ dám mơ tới, hay chỉ có thể mơ tới.
Tương tự như vậy, họ đưa ra những đòi hỏi về sự thấu hiểu và tình bầu bạn.
Nhưng, vốn đã phải chịu nỗi lo lắng giữa những người hợp tác đối kháng
cùng giới, không phải lúc nào đàn ông cũng chào đón sự hợp tác và bầu bạn
từ người khác phái mà việc xóa bỏ một thuế quan cũ hơn đã cho phép, và
xét trên một phương diện nào đó, đã yêu cầu. Trong khi những cá nhân
thuộc kiểu nội tại định hướng, những người vẫn có thể ra vẻ kẻ cả với phụ
nữ, kêu ca với tình nhân là vợ không hiểu anh ta, thì trên thực tế đàn ông
thuộc kiểu ngoại tại định hướng lại phàn nàn là vợ anh ta hiểu anh ta quá tỏ
tường.
Các mối bất an do những người mới được giải phóng gây nên như vậy là
một nguyên nhân dẫn đến những cố gắng hiện tại nhằm tái tư hữu hóa phụ
nữ bằng cách định nghĩa lại vai trò của họ theo một cách dễ chịu nào đó
mang đậm tính gia đình và truyền thống. Nhiều người, cả đàn ông lẫn đàn
bà, khá băn khoăn trước cái gọi là sự phân hóa trong gia đình và nhìn lại
đầy khát khao cấu trúc gia đình của các xã hội ở giai đoạn đầu trên đường
đồ thị dân số. Họ thường không thấy được rằng tỷ lệ ly hôn hiện nay phần
nào là một chỉ số cho các đòi hỏi mới về sự hòa hợp và nhàn rỗi đối với hôn
nhân của các cặp trung lưu nhạy cảm; rằng các đòi hỏi này không chỉ càng
ngày càng cao, trong vấn đề chọn lựa bạn đời, mà như Margaret Mead đã
nhận xét, còn bao gồm cả niềm kỳ vọng rằng mỗi người bạn đời đều tăng
trưởng và phát triển theo nhịp độ tương đương.
Đúng thế, nhiều cuộc ly hôn là kết quả của hành động thăm dò trên lĩnh
vực tình dục mà xã hội nhàn rỗi của chúng ta đã mở ra để những người