Hơn nữa, “tâm lý khan hiếm” của nhiều người kiểu nội tại định hướng,
vốn đã thích nghi với xã hội rất tốt trong giai đoạn tích lũy tư bản ồ ạt đi
kèm với tăng dân số chuyển tiếp, cần nhường đường cho một “tâm lý dư
dật” có khả năng tiêu thụ xa xỉ “hoang phí” thời gian nhàn rỗi và sản phẩm
thặng dư. Trừ phi người ta muốn tiêu hủy sản phẩm thặng dư vào chiến
tranh, nơi vẫn còn đòi hỏi trang bị tư bản tập trung, bằng không người ta
phải học cách ưa thích và lao vào những việc tốn kém về nhân lực chứ
không phải về tư bản - chẳng hạn như thơ ca và triết học.
Quả thực,
trong giai đoạn chớm giảm dân số, những người tiêu dùng phi sản xuất, cả
số người già ngày càng đông lẫn số thanh niên chưa được đào tạo ngày
càng ít đi, hình thành nên một bộ phận lớn trong dân cư, và những người
này cần cả cơ hội kinh tế để có thể hoang phí lẫn cấu trúc tính cách để cho
phép điều đó diễn ra.
Nhu cầu cần có thêm một danh sách kiểu tính cách nữa như vậy đã được
công nhận trong một chừng mực nào đó hay chưa? Các quan sát của tôi
khiến tôi tin rằng ở Mỹ thì nó đã được công nhận.
Định nghĩa về kiểu ngoại tại định hướng. Kiểu tính cách ngoại tại định
hướng mà tôi sẽ mô tả có vẻ đang xuất hiện những năm gần đây trong giai
tầng trung lưu lớp trên ở các thành phố lớn: nổi bật ở New York hơn ở
Boston, ở Los Angeles hơn ở Spokane, ở Cincinnati hơn ở Chillicothe. Thế
nhưng trong một số khía cạnh, kiểu này giống đến mức lạ lùng với kiểu
người Mỹ mà Tocqueville và những vị khách vừa tò mò vừa kinh ngạc khác
từ châu Âu, thậm chí trước Cách mạng, đã tưởng là một mẫu người mới.
Thực ra, các tường thuật về Mỹ của du khách làm chúng ta thấy ấn tượng vì
sự nhất trí ở họ. Người Mỹ được cho là hời hợt hơn, thoải mái về tiền bạc
hơn, thân tình hơn, thiếu tin tưởng ở bản thân và các giá trị của mình hơn,
muốn được công nhận hơn người Âu. Hết thảy những điều ấy thêm vào một
mẫu hình mà, không cần phải kéo vấn đề đi quá xa, giống với kiểu tính cách
được một số nhà nghiên cứu khoa học xã hội nhìn nhận là đang phát triển ở
nước Mỹ hiện đại, công nghiệp hóa cao và quan liêu: “dân buôn” của