mặt với số phận của mình.
"Vậy thì, dạy em cách làm bánh kếp đi", cô yêu cầu như thể ra lệnh cho
anh. "Ừ!", anh thốt lên như vừa mới nhìn thấy cô lần đầu.
"Em đang mặc cái gì vậy?"
"Quần ống túm", cô đập đập tay.
"Quần ống túm? À, anh biết đây là quần ống túm nhưng... nhưng em là
phụ nữ mà."
"Karl, chiếc đầm của em đã bị ướt ngày hôm qua khi chúng ta ra rừng
thông.
Nó thường vướng phải cành cây, lại còn làm em bị vấp và khó di chuyển
khi phải kéo lê nó qua bụi rậm. Và... và nó làm công việc của em khó khăn
hơn, nên em đã quyết định mặc quần của James. Anh nhìn này!" Cô quay
một vòng. "Nó rất vừa."
"Đúng, anh thấy rồi nhưng anh không biết phải nói sao. Ở Thụy Điển,
phụ nữ không mặc kiểu quần áo này khi đứng trước tủ thức ăn."
"Thật vớ vẩn!", cô tiếp lời anh. "Em cá với anh là ở Thụy Điển, phụ nữ
không cần phải giúp đàn ông trong việc xây nhà đâu đúng không?"
"Ừ, đúng rồi", anh miễn cưỡng thú nhận. "Nhưng, Anna, anh không
thích loại quần áo em đang mặc."
"Ồ, em biết. Em biết là mình không nên mặc những bộ quần áo nào
khác ngoài đầm dài. Nhưng ở đây, có ai khác nhìn em đâu, ngoài anh và
James?"
Anh còn không thể tự mình nghĩ ra câu trả lời hợp lý như vậy. Anh chỉ
nghĩ bộ quần áo cô mặc không thích hợp cho công việc nội trợ. Nhưng còn
quần ống túm? Anh không thể không hỏi cô, "Anh nghĩ là ở Boston, không
ai ngăn cản em mặc quần áo kiểu này đâu."