hướng này. Xét cho cùng, ngay người hướng ngoại nhất mỗi đêm cũng rơi
vào một trạng thái hướng nội sâu xa khi họ đi ngủ và bắt đầu mơ. Trong
trạng thái mơ, người ta hoàn toàn rời khỏi thế giới bên ngoài, và chừng nào
còn mơ, giấc mơ còn đại diện cho toàn bộ trải nghiệm của một người về
thực tại.
Trong quá trình hình thành lý thuyết về các loại hình tâm lý, Jung nhận
ra một điều vô cùng quan trọng mà các nhà tâm lý học hàn lâm thường bỏ
qua, đó là một nhà tâm lý học không thể hoàn toàn khách quan khi thu thập
và diễn giải dữ liệu. Trừ phi nhà quan sát có thể biết “phương trình cá nhân”
của bản thân và cho phép vai trò của nó trong công trình của mình, còn nếu
không, những quan sát của người đó không tránh khỏi bị tác động bởi sự
thiên lệch. Ngay trong vật lý, người ta đã phát hiện rằng chính người quan
sát làm ảnh hưởng đến hiện tượng mà mình đang quan sát. Điều đó còn
đúng hơn đến mức nào trong nghiên cứu về tâm lý con người và trong thực
hành phân tích tâm lý? Do vậy, hiểu biết về loại hình tâm lý của bản thân sẽ
hữu ích ở chỗ nó cho phép sửa chữa đến mức độ nhất định những thiên lệch
cá nhân mà người ta gây ra cho tình huống.
Nhìn chung, loại hình học của Jung được ứng dụng tốt nhất theo cách
như dùng compa: mọi khả năng loại hình học đều tồn tại về mặt lý thuyết ở
Ngã, nhưng sự hữu ích là ở chỗ có thể xác lập những tọa độ mà một người
đang sử dụng để biểu thị tiến trình sống của người đó. Jung chấp nhận rằng
tiến trình này không bao giờ được cố định một cách ương ngạnh. Bất kỳ lúc
nào nó cũng có thể chịu sự thay đổi. Nhìn nhận dưới ánh sáng như vậy, nhận
thức về loại hình tâm lý của một người không phải là một giới hạn mà là
một sự giải phóng, bởi nó có thể mở ra những hướng đi mới trong cuộc sống
mà người đó có thể đã không bao giờ phát hiện ra.