Phương pháp nắm giữ ảo tưởng này rất lâu về sau đã được ông sử dụng
như một kỹ thuật trị liệu trong hành nghề phân tâm học. Ông gọi nó là tưởng
tượng chủ động (active imagination), và việc khám phá ra nó phần nhiều do
làm theo gương cô em họ đồng cốt, Helene Preiswerk. Đi xuống một con
đường dốc đứng giống như vào một trạng thái nhập đồng, trong đó những
nhân cách vô thức lộ ra đủ rõ để ông giao tiếp được với chúng. Về cơ bản,
điều ông đã khám phá là một khả năng riêng của ông - khả năng đi xuống
cõi âm giống như Odysseus, Heracles hay Orpheus trong khi vẫn hoàn toàn
tỉnh táo. Trong những chuyến hành trình này, hai nhân vật ông thường xuyên
chạm mặt là một phụ nữ trẻ đẹp tên là Salome và một ông già với chòm râu
bạc và đôi cánh của chim bói cá tên là Philemon. Jung nhận định đây là biểu
hiện của hai cổ mẫu (archetype) - người nữ bất diệt và người già minh triết.
Những trò chuyện của ông với hai nhân vật này đưa ông đến với nội
kiến quyết định: những thứ xảy ra trong tâm thần không phải do ý muốn tạo
ra, mà chúng có một đời sống của riêng chúng.
Philemon đại diện cho một thế lực không phải là bản thân tôi. Trong các huyễn tưởng của tôi,
tôi có những trò chuyện với ông và ông nói những điều tôi đã không nghĩ bằng ý thức. Bởi lẽ,
tôi quan sát thấy rõ rằng ông nói chứ không phải tôi. Ông nói tôi đối xử với ý nghĩ như thể tôi
tự mình tạo ra chúng, nhưng theo ông, ý nghĩ như thú vật trong rừng, như người trên mặt trăng
hay chim trong không trung, và nói thêm: “Nêu anh thấy những người trong một căn phòng,
anh sẽ không cho rằng mình tạo ra họ, hay anh phải chịu trách nhiệm về họ”. Chính ông dạy tôi
tính khách quan của tâm thần, thực tại tâm thần. (Tự truyện, trang 176).