bức tranh liên hệ rất nhiều với giá cả thị trường những tác phẩm của Monet,
mối quan tâm của chúng ta về ông như một nghệ sĩ, và vị trí hàng đầu của
ông trong nhiều bộ sưu tập công cộng. Tất cả những yếu tố bên ngoài này
làm dịch chuyển đường lối mà chúng ta xem xét ‘cái bên trong’.
Thế kỉ 20 - đặc biệt những thập niên mở đầu - chứng kiến một sự quan
tâm gia tăng vào tâm trí con người, và điều này giúp mở ra những suy nghĩ
về nghệ thuật trong một cung cách hoàn toàn khác. Phân tâm học là sự
khảo sát về tâm trí vô thức và được đề cao bởi nhà tâm lí trị liệu ở thành
phố Vienna, thủ đô nước Áo, là Sigmund Freud, ông sử dụng những
phương pháp như liên tưởng tự do (free association) là sự phát sinh một
chuỗi những ý niệm liên hệ mà không có suy nghĩ tập trung và những giấc
mơ như một phương tiện để thăm dò tâm trí con người. Những ý niệm của
ông giờ đây đã trở nên quen thuộc với chúng ta - một sự lỡ lời bộc lộ những
ý tưởng bị che giấu hoặc bị dồn nén của người phát ngôn thường được gọi
là một sự lỡ lời kiểu Freud (a Freudian slip) - vậy nên thật khó để chúng ta
tưởng tượng ra những ý niệm của Freud là mới mẻ và cách mạng như thế
nào vào thời đó. Freud mô tả con người bao gồm hai phần: (1) cái ấy (the
iđ), tức là tâm trí vô thức hoặc cái vô thức; (2) bản ngã (the ego), tức là tâm
trí ý thức, từ ngữ có lẽ chúng ta quen dùng nhiều nhất. Ông cũng đề ra ý
niệm về phức cảm Oedipus (Oedipus complex) trong bản tính của con
người ở những tương quan của con cái với mẹ của chúng và, như chúng ta
sẽ thấy, điều này đã là một hòn đá thử vàng của những cung cách suy nghĩ
khác nhau về nghệ thuật. Để minh chứng những gì ông muốn nói, Freud sử
dụng bức tranh Trinh nữ và Chúa Hài đồng với Thánh Anna và Thánh John
Tẩy giả của Leonardo da Vinci (Hình 15). Sự xuất hiện của hai phụ nữ,
Maria ngồi trong lòng bà mẹ của mình, theo Freud, là do những bất an của
Leonardo về sự kiện ông là một đứa con hoang không được thừa nhận
chính thức.
Phân tâm học cho phép chúng ta suy nghĩ về những ý nghĩa trong
nghệ thuật song song với những ý nghĩa mà nhà nghệ sĩ có ý hướng chủ
định khí tác phẩm được thực hiện. Điều này là quan trọng bởi nó là một