cire perdue (tiếng Pháp)/ sáp chảy: cũng gọi là ‘lost wax’ tức là sáp
mất đi, là phương pháp đúc khuôn đồng sử dụng một cốt bằng đất sét
và lớp áo bằng sáp đặt trong khuôn. Sáp bị nóng chảy trong khuôn và
thoát ra, còn đồng nóng chảy khi đó được rót vào khoảng không gian
để lại, tạo ra một điêu khắc bằng đồng rỗng khi cốt bằng đất sét được
tháo gỡ.
gesso/ thạch cao: ở Tây Ban Nha và Ý, nó được gọi là gypsum
(calcium sulphate) hòa với keo động vật và được dùng làm nền với
một tầng đế bằng gỗ. Ở Bắc Âu, một lớp nền tương tự bằng vôi phấn
(calcium carbonate) được sử dụng như một chất gắn kết. Một lớp đầu
tiên, thô, được gọi là gesso grosso (thạch cao thô dày), tiếp sau là một
lớp trên cùng mịn màng, được gọi là gesso sottile (thạch cao tinh
mỏng), có thể chà thật láng mịn. Một số nghệ sĩ sau này chỉ dùng một
lớp thạch cao tinh mỏng.
glaze/ tráng bóng: một lớp tráng bằng màu trong suốt phủ lên lớp vẽ
lót (underpainting) đã khô. Kĩ thuật này là thông thường trong tác
phẩm của các nghệ sĩ như Titian và Rubens.
grisaille (tiếng Pháp)/vẽ phác: lối vẽ đơn sắc, thường thì những sắc
độ đa dạng của màu xám tro, có thể cho hiệu ứng điêu khắc nổi. Từ
này cũng quy chiếu đến lớp vẽ lót của một tác phẩm, nơi màu sắc cục
bộ được vẽ trên lớp xám tro như lớp màu mờ đục, nửa mờ đục, và
trong suốt.
ground/ nền: bề mặt nguyên sơ, trên đó lớp màu được vẽ. Nó thường
quy chiếu về một lớp áo mờ đục hơn là các mặt vẽ (support). Theo
truyền thống, nền là một lớp sơn dầu trắng mờ đục; hoặc vôi phấn,
hoặc thạch cao hòa với keo động vật (xem gesso) trên tấm ván gỗ.
highlight/ chỗ sáng: sắc độ nhẹ nhất trong một bức họa.
impasto (tiếng Ý)/ vẽ đặc: vẽ sơn dày với một cây cọ lông cứng hoặc
dao trộn màu để tạo kết thức bề mặt (surface texture). Từ này thường
được dùng để mô tả kĩ thuật của các họa sĩ phái ấn tượng, nhưng cũng
được thấy trong tác phẩm của Rembrandt,