imprimatura (tiếng Ý)/ lớp nền sơn dầu: một lớp vẽ bằng sơn dầu,
thường có một sắc độ trung tính hoặc nhạt, được dùng như lớp áo nền
trong tranh sơn dầu.
lapis lazuli (tiếng Latin): một chất màu xanh dương đậm, rất đắt tiền,
làm bằng đá quý nghiền nhỏ.
medium/ dung dịch pha màu: một chất phụ gia lỏng được dùng cho
những chất màu, như dầu lanh hoặc lòng đỏ trứng (xem tempera/màu
keo). Sự lựa chọn từ môi trường ảnh hưởng tới thời gian khô và tính
đàn hồi của lớp sơn khi khô.
modelling/ tạo kiểu: trong hội họa, nói tới hình thức ba chiều không
gian của một đối tượng qua các sắc độ (tone) khác nhau - đôi khi được
quy chiếu như là tạo kiểu bằng màu sắc; hoặc gây ảo giác về khối
lượng từ hiệu ứng ánh sáng và bóng rợp - đôi khi được quy chiếu như
là tạo kiểu bằng sáng tối. Trong điêu khắc, từ này chỉ thị một kĩ thuật
liên quan tới việc sử dụng chất liệu dễ uốn nắn như đất sét hoặc sáp.
Kĩ thuật này cũng được thí dụ bằng những tác phẩm đúc khuôn bằng
kim loại hoặc thạch cao được làm từ khuôn mẫu của một nguyên bản
bằng đất sét. Khuôn được làm bằng quy trình sáp chảy/cire perdue.
palette/ bảng pha màu: công cụ - thường là một tấm ván dẹt có thể
nắm giữ bằng một bàn tay - trên đó họa sĩ pha trộn chất liệu vẽ, tạo ra
một tập hợp các màu sắc được tuyển chọn để dùng trong hội họa.
‘Bảng pha màu giới hạn’ (‘limited palette’) quy chiếu về việc nghệ sĩ
sử dụng một số lượng hạn chế màu sắc hoặc sắc độ.
paper/ giấy: những thứ giấy màu (thông dụng nhất là các màu: nâu,
xám, lục, hồng, và xanh dương) thường được dùng như một sắc độ
trung gian cho việc phác thảo bởi những nghệ sĩ thời sơ kỳ. Leonardo
và nhiều người khác thực hiện các khảo sát trên vải xanh dương được
gọi là ‘vải từ xứ Rheims (một thành phố phía bắc nước Pháp)’.
parchment còn gọi là vellum/ da thuộc: của dê hoặc cừu đã cạo hết
lông, đem ngâm với nước vôi và chà bằng đá bọt (pumice stone) sau
đó căng trên một mặt vẽ bằng gỗ có thể dùng để viết hoặc vẽ tranh.