về Nietzsche, một triết gia trong số những triết gia khác, để so sánh và đối
chiếu ông với Spinoza, Kant, Hegel, và những tên tuổi hàng đầu khác trong
truyền thống triết học phương Tây. Được bảo chứng bởi sự uyên bác của
Kaufmann, các triết gia Mỹ, và sau đó ngày càng nhiều các triết gia nói
tiếng Anh, đã lấy ông làm điểm khởi đầu cho những nghiên cứu về
Nietzsche của họ, về tính khách quan, bản chất của chân lý, mối quan hệ
của Nietzsche với tư tưởng Hy Lạp, bản chất của tự ngã, và nhiều chủ đề
khác, ở mọi mức độ như được xử lý trong các cuốn sách và bài báo của họ.
Trong khi đó, tại châu Âu, nơi ông chưa bao giờ bị ghét bỏ, từ sau Thế
chiến II, Nietzsche tiếp tục trở thành đối tượng nghiên cứu và chiếm hữu
với các nhà hiện sinh, các nhà hiện tượng học, và sau đó, vào những năm
1960 và 1970, ngày càng trở thành trung tâm chú ý cho các nhà lý luận phê
bình, các nhà hậu cấu trúc và giải cấu trúc. Khi hai phong trào sau lần đầu
tiên đặt chân vào Mỹ, rồi bao trùm cả đất nước này, Nietzsche một lần nữa
lại được công nhận là nguồn cảm hứng chính của họ. Một số triết gia phân
tích cũng thấy ông không quá xa cách với những quan tâm của họ như họ
vẫn tưởng, và theo cung cách có đi có lại đặc trưng cho cuộc sống học
thuật, họ ca ngợi ông vì đã có, dưới dạng phôi thai, một số thấu thị của họ,
đồng thời tự thuyết phục mình về những thấu thị này bằng cách cầu viện
đến uy quyền của ông. Hiện ngành kinh doanh Nietzsche đang có chiều
hướng phát đạt, và hầu như chắc chắn mỗi năm sách về ông xuất hiện nhiều
hơn bất cứ một nhà tư tưởng nào khác, nhờ vào sức lôi cuốn của ông với
quá nhiều trường phái tư tưởng và phản tư tưởng khác nhau.
Chẳng ích gì để cho rằng Nietzsche sẽ không hài lòng chút nào với
hiện tượng này. Trong suốt cuộc đời mình (và trừ khi được nói rõ, còn
không tôi sẽ luôn có ý nói đến đoạn đời đã đột ngột kết thúc khi ông phát
điên vào năm 1889, mười một năm trước khi qua đời), Nietzsche gần như
hoàn toàn bị người đời làm ngơ. Và mặc dù chuyện đó cũng chẳng làm cho
ông cay đắng thêm, vì hầu như không có gì làm được điều này, nhưng nó
vẫn khiến ông đau đớn vì ông tin rằng mình có những chân lý sống còn để
truyền đạt cho những người đương thời mà họ đã bỏ qua với cái giá khủng