trong các phẩm chất được mong muốn, hoặc thậm chí là cần thiết, của nó.
Và điều này dường như vô lý với tư cách một mong ước về con người, đó
là chưa nói đến một huấn thị: nó giả định rằng hầu hết mọi người đều có
trong thâm tâm niềm mong ước là duy nhất theo một nghĩa khá mạnh mẽ,
một giả định mà nếu làm vậy, Nietzsche chắc chắn phải được đặc biệt chú
ý.
Thực tế, ông đang nghĩ đến, ở mức thấp nhất, những người có thể đọc
và hiểu được ông - đó không phải là điều ông nói, như tôi hoài nghi; nhưng
nếu người ta không thể hiểu ông, thì cơ hội khơi lên các năng lượng cần
thiết để theo ‘cách của chính mình’ sẽ là vô ích. Đó là điều đã hạn chế số
người ông nói đến chỉ ở một tỷ lệ nhỏ trong dân số’. Vậy số còn lại thì sao?
Làm sao ông có thể lên án những con người bầy đàn khi họ không có khả
năng để là bất cứ cái gì khác? Nhưng ông không lên án họ; ông chỉ đơn
giản không quan tâm đến họ. Điều này đặt ra toàn bộ vấn đề về sự khôn
ngoan của ông, đưa đến sự gia tăng những lời bình luận đạo đức giả trong
các nhà phê bình hơn bất kỳ đặc điểm nào khác trong tư tưởng của ông.
Chúng ta sẽ xem xét nó sau. Nhưng những người có thể đọc và hiểu ông
nhưng vẫn cảm thấy rằng không có cách đặc biệt nào dành riêng cho họ thì
sao? Có phải quan điểm của Nietzsche là họ đang tự lừa dối mình để có thể
sống ổn thỏa với nó, hay là có thể họ đúng? Nếu họ đang tự lừa dối mình,
thì dường như ông có một cách đánh giá khá bất ngờ, về khả năng của con
người. Còn nếu họ đúng, ông sẽ nói gì về việc cho rằng phong cách cuộc
đời của họ là không thích hợp, và họ có thể thắc mắc họ được cho là phải
làm những gì với bản thân - những người tài năng, thông minh, có giáo dục,
nhạy cảm, dễ tiếp thu nhưng không có xu hướng phát triển một phẩm chất
cao, bởi vì mặc dù có những khả năng thiên phú, nhưng họ về cơ bản là thụ
động. Hay là không có người nào về bản chất là thụ động cả? Thêm nhiều
câu hỏi hơn nữa.
Một câu hỏi nổi bật khác có thể bàn luận tiếp trước khi chúng ta rời
khỏi vấn đề phong cách. Một trong những nhà bình giải thú vị nhất về
Nietzsche, Alexander Nehamas, đã nêu lên (Nehamas. 1985) và thất bại