tâm, tàn nhẫn hay vô cảm. Còn về phía người được thương xót, ông chỉ ra
rằng việc sắp xếp gìn giữ các trạng thái tâm hồn kẻ đó là một chuyện tế nhị,
rằng những người nhận thấy kẻ đó đang trong cảnh khôn cùng và do vậy
vội vàng đến giúp kẻ đó ‘thừa nhận vai trò của số phận’, họ chưa bao giờ
nghĩ rằng người chịu đau khổ có lẽ cần đến nỗi đau khổ, thứ đan xen với
niềm vui: “Không, cái tôn giáo của lòng thương hại ‘(hay ‘tôn giáo của trái
tim’) ra lệnh cho họ giúp đỡ, và họ tin rằng họ đã giúp nhiều nhất khi giúp
một cách nhanh chóng nhất” (GS 338).
Rõ ràng Nietzsche không phải nói về việc cho một người đang đói
được ăn, hoặc gây mê một người sắp trải qua phẫu thuật. Sự công kích của
ông liên quan đến lòng trắc ẩn như một công việc chiếm toàn bộ thời gian
sống của một loại người nhất định, với sự bỏ qua cao thượng những lợi ích
của chính mình, như chúng ta vẫn được dạy. Vì vậy, đơn thuần là tầm
thường (nhưng quả thực rất phổ biến) để giải thích là ông biện hộ cho việc
làm ngơ các nhu cầu cơ bản của ngươi khác, như thảo luận ngay sau đó của
ông đã làm rõ về tác động của lòng thương hại đối với kẻ trắc ẩn. ‘Tôi biết,
có cả trăm cách lịch sự và đáng ca ngợi để đánh mất mình, và chúng thực
sự rất ‘đạo đức’! Thật vậy, những người đang rao giảng đạo lý của lòng trắc
ẩn thậm chí còn cho như thế và chỉ như thế mới là đạo đức - đánh mất
chính mình để giúp đỡ người hàng xóm’(GS 338). Và ông tiếp tục nhấn
mạnh là việc xa lánh lòng biết ơn và sự thân tình để theo đuổi con đường
riêng là khó khăn ra sao, cô đơn ra sao. Ông kết luận rất ấn tượng, ‘đạo đức
của tôi bảo với tôi rằng: Hãy sống ẩn dật để có thể sống cho chính mình.’
Nhiều người sẽ cảm thấy một thứ đạo đức khăng khăng yêu cầu người
ta làm theo cách của chính họ là thứ đạo đức mà họ đơn giản không thể làm
theo, với lý do rõ ràng là họ không biết phải làm ‘như thế nào’ - họ có năng
lực, có các nhu cầu, các lo âu, và các vấn đề, nhưng không có gì là mục
đích được định ra cho riêng họ. Trong lời gợi ý rằng mỗi người sẽ trở thành
nghệ sĩ của cuộc đời mình, Nietzsche có lẽ đang vận dụng quan điểm khá
đòi hỏi mà hiện nay chúng ta có, hoặc đã có cho đến rất gần đây, về cái gì
tạo thành một tác phẩm nghệ thuật, trong đó tính độc đáo xếp hạng cao