lại với những gì được gọi là ‘thế tiến thoái lưỡng nan của nhà nhân loại
học’. Đó là về việc làm thế nào để hiểu được một bộ lạc có những khái
niệm mà chúng ta không chia sẻ - vì hiểu biết một phần là việc sẵn sàng áp
dụng các khái niệm tương tự cho các tình huống tương tự; và nếu những bất
đồng là bao hàm toàn bộ như những bất đồng của chúng ta với một bộ lạc
thực hành ma thuật, dựa trên một tập hợp các quan điểm về mối liên hệ
nhân quả giữa các câu thần chú và các nghi lễ được thực hiện bởi một số
thành viên của bộ lạc, và trạng thái kết quả của một số thành viên khác, thì
theo một cách nào đó có vẻ như chúng ta không thể nắm bắt được những gì
đang diễn ra - hoặc ít nhất là được suy nghĩ bởi một số nhà nhân loại học và
nhà lý thuyết về chủ đề này.
Nhưng trong khi cố đưa ra một lập trường nhân loại học cho chính xã
hội của ông, và những truyền thống trung tâm của văn hóa phương Tây,
Nietzsche lại đang ở trong một cảnh ngộ khác nhưng có lẽ đáng lo ngại
hơn. Vì ông là người đầu tiên nhấn mạnh rằng không hề có một bản ngã
chân thực, thứ có thể nhìn thế giới với con mắt thản nhiên lãnh đạm, không
bị vấy bẩn bởi môi trường của nó. Ông lo lắng hơn bao giờ hết để chỉ ra
rằng chúng ta không có gì vượt trội và cao hơn so với các bản năng của
mình, những ký ức của chúng ta, và các trạng thái và các sắp đặt khác mà
quy tắc văn phạm (và bắt nguồn từ ngữ pháp, triết học và thần học) dẫn
chúng ta đến chỗ quy cho một chủ thể, mà hóa ra chỉ là chuyện hoang
đường. Và những trạng thái tinh thần này được quyết định bởi xã hội trong
đó chúng ta lớn lên, đến một điểm mà chúng ta không thể tách khỏi bản
thân mình và nhìn vào những gì chúng ta sẽ trở nên như thế, nếu chúng ta
có sự độc lập với những gì tạo nên chúng ta. Vậy, điều gì cho phép ông có
được cái nhìn từ nhãn quan Thượng đế về thân phận con người, để từ đó có
thể đưa ra những phán xét vượt qua thiện ác?
Ông không bao giờ trả lời câu hỏi này một cách trực tiếp, mặc dù chắc
chắn là ông viết về nó. Giải pháp của ông, trong chừng mực nó có nghĩa là
giải pháp, nằm trong thứ mà những năm gần đây đã trở thành một trong
những quan điểm được tán dương nhiều nhất của Nietzsche, nhờ vào sự