75
TẬP 6: DANH NHÂN CÁCH MẠNG VIỆT NAM
nông, lớn lên ông vào lính khố xanh
(1)
được thăng đội trưởng đội lính
cơ tập trong Lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông Dương. Do đó, mọi
nguời thường gọi là Đội Cấn.
Trong đêm tân hôn, cô đã thủ thỉ cho chồng nghe bài thơ tuyệt mệnh
mà bố mình - nhà cách mạng Phùng Văn Nhuận - đã đọc trước lúc bị
chém:
Đời là thế, ấy đời là thế
Hồn có thiêng cũng hé miệng cười
Những quân dạ thú mặt người
Quá ham danh lợi, đạo trời kề chi
Lại gặp lúc nước suy thế ngặt
Lũ “rước voi” ra mặt tung hoành
Thi nhau bán nước cầu vinh
Còn đâu nghĩ tới chút tình keo sơn!
Nghe xong bài thơ, Đội Cấn suy nghĩ rất nhiều. Ông sực nhớ lại tháng
ngày trước đây đã từng tham gia đàn áp phong trào Yên Thế của Đề
Thám, nhưng biết cụ chủ trương chỉ giết giặc Pháp chứ không đánh lính
khố xanh, khố đỏ nên Đội Cấn dần dần hiểu việc làm chính nghĩa của
người kháng chiến. Hiểu và khâm phục nhưng nào dám tâm sự với ai,
nay được vợ phân tích phải trái thì ông lại càng “tâm phục khẩu phục”
và bộc bạch nỗi lòng với người đầu ấp tay gối:
- Chả trách những người đang nằm bên đề lao kia, họ làm cách mạng
là đúng. Sứ mệnh ấy vẻ vang biết chừng nào!
(1)
Lính khố xanh: lính thuộc lực lượng vệ binh bản xứ ở Đông Dương và Quảng Châu Loan
(Trung Quốc) do thực dân Pháp tổ chức, chỉ huy để đán áp phong trào yêu nước, cách mạng;
duy trì trật tự trị an; canh giữ công sở của Pháp, các tuyến giao thông, trại giam; áp tải tù nhân,
hàng hóa; ở Việt Nam xuất hiện từ cuối thế kỷ XIX; trang phục có xà cạp và tấm vải che bụng
màu xanh. Chính thức thành lập theo sắc lệnh tổ chức Lực lượng cảnh sát đặc biệt toàn Đông
Dương do tổng thống Pháp ký ngày 30/6/1915. Thống đốc (ở Nam kỳ), thống sứ (ở Bắc kỳ) và
khâm sứ (ở Trung kỳ) chỉ huy và quy định số quân cho từng tỉnh; được tuyển mộ như lính chính
quy và có thể bị đưa đi chiến đấu ở tỉnh khác hoặc chuyển sang lực lượng chính quy của quân
đội thuộc địa khi cần thiết. Ở Nam kỳ cũng gọi lính thủ bộ hay dân vệ. Sau đảo chính ngày
9.3.1945, Nhật giữ nguyên tổ chức lính khố xanh và trao quyền chỉ huy cho chính phủ Trần
Trọng Kim” (Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam - Trung tâm Từ điển bách khoa quân sự Bộ
Quốc phòng biên soạn, NXB Quân đội Nhân dân - 1996, tr. 482).