sâu kín, đều có thi tập lưu hành ở đời nhưng do binh lửa nên đã thất truyền,
tiếc thay!... Các bậc quân tử sau này có lòng sưu tầm rộng khắp, rồi xếp đặt
thành quyển, thành tập, mới mong khỏi phải thở than vì bỏ sót mất hạt châu
trong biển cả".
Sách chưa kịp khắc in thì Phan Phu Tiên được cử giữ chức An Phủ sứ ở
tỉnh ngoài (Thiên Trường, Hoan Châu). Việt âm thi tập được Thị ngự sử
Chu Xa vâng lệnh triều đình biên soạn tiếp. Sau hơn 10 năm sưu tầm, chỉnh
lý, sắp xếp, bản thảo Tân tuyển Việt âm thi tập do Chu Xa biên tập đã hoàn
thành vào năm 1459, được Hàn Lâm học sĩ Lý Tử Tấn hiệu chỉnh, rồi cho
khắc in. Theo bài tựa của Lý Tử Tấn thì Tân tuyển Việt âm thi tập thu thập
được hơn 700 bài thơ (sắp xếp thành 7 quyển). Bản in lần đầu đã thất tán từ
lâu. Hiện nay chỉ còn được thấy ba quyển đầu của lần tái bản năm 1729.
Sau một thời gian làm quan ở tỉnh ngoài, năm 1448, Phan Phu Tiên lại
được triệu về kinh, sung chức Quốc Tử Giám bác sĩ tri Quốc sử viện, vừa
giảng dạy ở Quốc Tử Giám lại vừa trông coi công viện của Viện quốc sử.
Năm ất Hợi, niên hiệu Diên Minh thứ hai đời Lê Nhân Tông (1455), vâng
lệnh nhà vua, ông bắt tay vào biên soạn bộ Đại Việt sử ký tục biên (nối tiếp
theo Đại Việt sử ký của Lê Văn Hưu), chép việc từ đời Trần Thái Tông cho
đến khi quân Minh rút về nước (từ năm 1226 cho tới năm 1427), gồm 10
quyển. Đại Việt sử ký tục biên nay đã thất truyền, nhưng Ngô Sĩ Liên đã
dựa vào bộ sử này để biên soạn những phần có liên quan trong Đại Việt sử
ký toàn thư.
Ngoài Việt âm thi tập, Đại Việt sử ký tục biên, tương truyền ông còn viết
Quốc triều luật lệnh, Bản thảo thực vật toản yếu, cũng đều thất truyền. Toàn
Việt thi lục do Lê Quý Đôn biên soạn có chép ba bài thơ của ông: Vi nhân
cầu giáo (Làm người cần phải học tập), Hạ gián nghị đại phu Nguyễn ức
Trai và Đương đạo Lương Phán quan nhậm mãn (Tặng ông phán quan họ
Lương hết hạn nhậm chức), lời thơ bình dị nhưng chứa đựng nhiều ý tưởng
khá sâu sắc, nêu cao truyền thống hiếu học, trọng nghĩa tình, chăm lo việc
dân, việc nước của nho sĩ Việt Nam.
Hiện nay ở làng Đông Ngạc (huyện Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội) có nhà
thờ Phan Phu Tiên với bức hoành phi mang ba chữ Khai Tất Tiêu, nhắc nhở