khoan dung, giản dị, nhân dân đều được yên vui" (Việt sử thông giám
cương mục).
Khoan dung, tức là không thắt buộc, khắt khe quá đối với nhân dân, chống
bọn tham ô quan lại, một tệ nạn lớn của thời Bắc thuộc.
Giản dị, là không làm phiền hà, nhiễu dân bởi quá nhiều thủ tục hành chính
quan liêu...
Yên vui, "an cư lạc nghiệp" là lý tưởng của nếp sống nông dân nơi làng
xóm.
Tóm lại, đó là một đường lối chính trị thân dân. Nó chứng tỏ bất cứ một
phong trào dân tộc chân chính nào cũng phải có một nội dung dân chủ nào
đó.
Khúc Hạo đã sửa đổi lại chế độ điền tô, thuế má lao dịch nặng nề của thời
thuộc Đường. Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập sổ hộ
khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi".
Từ một mô hình của chính quyền đô hộ, nhằm khắc phục tính phân tán của
quyền lực thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu tiên hết
sức lớn lao nhằm xây dựng một chính quyền dân tộc thống nhất từ trung
ương cho đến xã. Ông chia cả nước thành những đơn vị hành chính các
cấp: lộ, phủ, châu, giáp, xã. Mỗi xã có xã quan, một người chánh lệnh
trưởng và một người tá lệnh trưởng. Một số xã ở gần nhau trước gọi là
hương nay đổi là giáp, mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để
trông nom việc thu thuế. Theo sách An Nam chí nguyên Khúc Hạo đặt
thêm 150 giáp, cộng với những giáp có trước cả thảy gồm 314 giáp.
Vì nhu cầu chống ngoại xâm, các hào trưởng địa phương phải phục tùng
chính quyền trung ương nhưng vẫn có xu hướng cát cứ và họ Khúc cũng
như nhiều triều đại độc lập tiếp theo, vẫn phải dựa vào họ để củng cố chính
quyền ở các cơ sở. Nhưng xu thế của lịch sử Việt Nam, mở đầu từ cuộc cải
cách của Khúc Hạo, là độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất quốc gia.
Công cuộc xây dựng nền tự chủ, thống nhất của Khúc Hạo mở ra một thời
kỳ phát triển mới của xã hội Việt Nam mà các triều đại sau đó sẽ hoàn
thành.
Khúc Hạo mất năm 917, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay. Năm 930, quân